Khu di tích quốc gia đặc biệt nhà Trần (theo Quyết định số 2308/QĐ-TTg ngày 09/12/2013 của Thủ tướng Chính phủ) là một quần thể di sản văn hóa đặc sắc, bao gồm 14 điểm di tích: 02 đền miếu (đền An Sinh, Thái miếu nhà Trần), 05 ngôi chùa (chùa Quỳnh Lâm, chùa Trung Tiết, am chùa Ngọa Vân, chùa Hồ Thiên, chùa quán Ngọc Thanh), 07 lăng mộ (Tư Phúc lăng, Thái lăng, Mục lăng, Ngải Sơn lăng, Phụ Sơn lăng, Nguyên lăng, Hy lăng). Các di tích kể trên phân bố trên địa bàn các phường An Sinh, Đông Triều và Bình Khê, với diện tích quy hoạch khoảng 2.206ha.
Trong quần thể trên, một số di tích có lịch sử từ thời Lý (như chùa Quỳnh Lâm, chùa quán Ngọc Thanh), song phần lớn di tích được khởi dựng và phát triển cực thịnh vào thời Trần (thế kỷ XIII-XIV), được quan tâm tu bổ, tôn tạo, duy trì thờ tự qua các thời kỳ nối tiếp, đặc biệt trong thời kỳ Lê Trung hưng (thế kỷ XVII–XVIII) và thời Nguyễn (thế kỷ XIX-XX). Các di tích thuộc Khu di tích nhà Trần đều có sự thể hiện song hành giữa yếu tố Hoàng gia và Phật giáo, thể hiện không chỉ trong quy chế kiến trúc mà còn qua hệ thống hiện vật được tìm thấy qua quá trình khai quật, khảo cổ di tích. Trong số hiện vật đó, hình tượng linh vật nổi bật như một “cầu nối” giữa thế giới linh thiêng và con người.
Trong nghệ thuật tạo hình truyền thống, linh vật có thể là những loài “không có thật” ngoài đời (như Rồng, Phượng, lân), cũng có thể là những loài có thật nhưng được linh hóa bằng các yếu tố thiêng (rùa, hạc, dơi…), thường mang trong mình ý nghĩa siêu phàm, có khả năng chi phối trần gian. Chúng xuất hiện phổ biến trong kiến trúc và đồ thờ, đóng vai trò trang trí, bảo hộ, đồng thời truyền tải triết lý nhân sinh – vũ trụ quan. Tại khu di tích nhà Trần ở Đông Triều, nhiều hình tượng linh vật tiêu biểu đã được phát hiện, phản ánh không chỉ thẩm mỹ nghệ thuật mà còn cả tinh thần thời đại, quan niệm tín ngưỡng và khát vọng nhân văn của tiền nhân.
Rồng
Theo quan niệm Phật giáo, trong các giống loài, Rồng chiếm vị trí thượng tôn, được thiên phú lẽ phải, các vua Rồng (Long vương) được coi là linh vật Bảo hộ Phật pháp. Rồng còn biểu trưng cho quyền lực và tư chất cao quý, thường được thêu lên y phục các bậc quân vương và được thể hiện trên các điêu khắc trang trí kiến trúc truyền thống (đền, miếu, đình, chùa…), trên nhiều chất liệu khác nhau như gỗ, đá, đất nung.
So với Rồng thời Lý (thế kỷ XI-XII) với vẻ đẹp mềm mại, uyển chuyển, điệp khúc, rồng thời Trần (thế kỷ XIII-XIV) mang phong cách mạnh mẽ, dứt khoát hơn. Có hình tượng Rồng thời Trần còn mang phong cách bắt nguồn từ thời Lý với tóc chải, có mào, uốn khúc cong đều, nhưng đã xuất hiện một dạng khác là Rồng mang nhiều điểm yếu tố thú (như Rồng thời Lý không có), được bỏ mào, môi trên nhô dài ra rồi cụp xuống, mũi sư tử, đặc biệt là đôi sừng hai chạc dựng đứng và đã xuất hiện Rồng có mây ám thân.



Đến thời Lê Trung hưng (thế kỷ XVII-XVIII), hình tượng Rồng được thể hiện đa dạng hơn do sự phát triển của nghệ thuật dân gian. Rồng đầu thế kỷ XVII có đặc điểm lưng võng hình yên ngựa, thân mảnh, mắt tròn lồi trong hốc sâu, đặc biệt vẫn còn những đao mảnh đè lên thân. Vào giữa thế kỷ XVII, nhiều Rồng có thân mập hơn, bỏ dần khúc ưng uốn yên ngựa, đa số có vảy rõ ràng, hình thể cân đối, thường kèm theo các trang trí gắn với nước, như thể hiện nguyện vọng cầu phúc lành cho nông nghiệp (như hình tượng vân xoắn, đao mác tượng trưng cho mây và sấm hợp lại thành thông điệp cầu mưa). Thời kỳ này cũng bắt gặp những hình tượng Rồng có đuôi dạng đuôi cá, đuôi mập, vẩy kép to tròn.


Phượng
Phượng (hay Phượng Hoàng) được coi là chúa của muôn loài chim, biểu tượng cho bầu trời, nguồn sinh lực linh thiêng, sự cao quý, thanh nhã. Phượng đầu đội công lý và đức hạnh, mắt là mặt trời và mặt trăng, lưng cõng bầu trời, cánh là gió, lông là cây cỏ, chân là đất, là hiện thân của vũ trụ, điềm báo cho sự hiện thân của thánh nhân. Trong Phật giáo, Phượng là loài chim thiêng biết dùng giọng hót để giảng về lẽ sinh thành, hủy diệt và khuyến khích điều từ bi.
Trong trang trí kiến trúc thời Trần, Phượng được thể hiện với bố cục chặt chẽ, cân đối, với hai loại chính là Phượng đơn và Phượng đôi. Phượng đơn xuất hiện trên loại hình lá đề lệch, Phượng đôi xuất hiện trên loại hình lá đề cân, trong đó Phượng đóng vai trò trung tâm trong một khung trang trí khép kín, được khắc họa chuẩn mực và quy phạm, tuân thủ nguyên tắc đăng đối. Ngoài ra, Phượng còn được thể hiện bằng loại hình hiện vật đầu Phượng bằng đất nung, trang trí trên bờ mái, đầu đao của đền thờ và lăng mộ; trên lo và vật phẩm dùng trong cung đình, các vật dụng nghi lễ, tượng trưng cho hoàng gia nhà Trần. Nhìn chung, hình tượng Phượng thời Trần có sự kế thừa hình tượng Phượng thời Lý, với mỏ diều hâu, mắt tròn, mang nở rộng, thân có vẩy, mào hình lá đề, tổng thể thân thon, cổ dài, cánh lớn. Tuy nhiên, các chi tiết không trạm khắc tỉ mỉ, trau chuốt thành những đường uốn cong và mềm dẻo như thời Lý, mà được thể hiện với sự mập mạo, khỏe khoắn, các đường nét đục chạm sâu và rõ rệt hơn, tạo nên tổng thể cân đối, uy nghiêm.

Sư tử
Sư tử còn có tên gọi khác là Nghê (Toan Nghê), có hai hình tướng cơ bản là hình sư tử được gọi là “sư tử” (các chi tiết hình thể của sư tử) và sư tử chó được gọi là “nghê” (kết hợp hình tượng đầu tư sử, thân chó. Loại hình này xuất hiện từ khoảng thế kỷ 15, thường thể hiện trên đồ thờ cúng, trạm khắc đình làng, với tư cách là linh vật canh gác).
Ở nước ta, hình tượng sư tử bắt đầu phổ biến từ thời Lý-Trần, chủ yếu trong nghệ thuật Phật giáo. Sư tử là hiện thân của sức mạnh và trí tuệ. Trong trang trí, sư tử được thể hiện uy nghi, sống động, các hình khối được thể hiện khỏe khoắn như trán ngắn, mắt lồi hình giọt lệ kép, mũi to bè, miệng mở rộng để lộ răng, khuôn mặt trang trí các đường cong song hành, đều đặn, tổng thể tạo ấn tượng về sự mạnh mẽ, nhưng không mất đi vẻ hiền lành, thân thiện, thể hiện cho sự cảnh giác, tư thế sẵn sàng bảo vệ
Sư tử thường được tạc trong tư thế đội tòa sen bệ tượng Phật (bệ tượng Phật tạo hình Sư tử thường gọi là “Sư tử tọa”, nhưng đôi khi cũng gọi là “Nghê tòa” hoặc Ông Sấm), đôi khi, hình tượng sư tử còn được thể hiện trên các phù điêu, hoặc ngói lợp mái kiến trúc với các đường nét chạm khắc khỏe mạnh, tinh tế, thể hiện sự uy nghiêm, quyền năng của một linh vật mang dấu ấn và phong cách thời đại.

Garuda
Garuda, hay Kim Sí Điểu, là một linh vật thần thoại có nguồn gốc từ Ấn Độ, được mô tả như một vị thần người-chim hùng mạnh. Trong Phật giáo, Garuda được xem là một trong các Hộ pháp Thiện thần, biểu trưng cho sức mạnh phi thường, trí tuệ quảng đại và sự tinh tấn không ngừng nghỉ trên con đường hàng phục ma chướng, bảo vệ Chính pháp.
Tại khu di tích nhà Trần, hình tượng Garuda tuy không phổ biến bằng Rồng hay Phượng, nhưng vẫn để lại những dấu ấn đặc sắc trong nghệ thuật điêu khắc. Vào thời Trần, Garuda mang đậm tính chất Phật giáo, được thể hiện với mỏ quặp sắc nhọn như diều hâu, đôi mắt tròn lồi, thân hình vạm vỡ của người, cánh và chân chim xòe rộng, hai tay thường nâng hoặc giữ các vật nặng… là linh vật trấn giữ các góc tháp, đỡ góc bệ thờ hoặc mái đao chùa. Garuda là đại diện tiêu biểu cho sự giao lưu văn hóa Đại Việt – Champa.

Bồ Lao
Bồ Lao có mẹ là Hống, cha là Rồng, thường được biết đến trong truyền thuyết Long sinh cửu tử trong quan niệm dân gian Á Đông. Bồ Lao có hình dáng giống Rồng nhỏ, nhưng thân ngắn, ưa thích âm thanh lớn, vì vậy thường là linh vật được trang trí trên quai chuông.
Tại khu di tích nhà Trần, hình tượng Bồ Lao được tìm thấy trên quai chuông trang trí di tích Thái lăng (lăng mộ vua Trần Anh Tông). Bồ lao có tư thế uốn cong, đầu hướng lên trên, đầu có hai sừng, mắt tròn to, mũi sư tử, râu dài uốn về sau, nanh nhọn, miệng rộng mở lớn, lưỡi uốn ra ngoài ngụ ý rằng khi tiếng chuông vang lên, chính là lúc Bồ Lao cất tiếng gầm.
Sự hiện diện của Bồ Lao trên chuông mang ý nghĩa linh thiêng sâu sắc, tiếng chuông gắn với Bồ Lao ngân vang là âm thanh của Chính Pháp, được tin là có khả năng xua tan tà ma, chấn động cõi u minh, thông tri với chư Thần, chư Phật. Tiếng chuông còn tượng trưng cho trí tuệ, có công năng thức tỉnh lòng người, phá tan mê muội.

Kết luận
Như vậy, thông qua hình tượng các linh vật Rồng, Phượng, Sư tử, Garuda, Bồ Lao, thể hiện trên các loại hình hiện vật của Khu di tích nhà Trần, có thể thấy rõ quy chuẩn của người xưa trong mô tả hình dạng linh vật và sự đa dạng của linh vật trong trang trí. Thông qua đó, sự thống nhất chung trong phong cách thể hiện hình tượng linh vật thời Trần, hay sự phong phú dân gian hóa ở thời Lê Trung hưng đã cho thấy thông điệp về thế giới quan, nhân sinh quan, tín ngưỡng và khát vọng về một cuộc sống thịnh vượng, bình an của tiền nhân xưa.




