LÝ LỊCH KHU DI TÍCH LỊCH SỬ MỎ THAN MẠO KHÊ
Phường Mạo Khê, thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh
———-
- Tên gọi di tích: Khu di tích lịch sử mỏ than Mạo Khê.
Mạo Khê là vùng đất giàu tài nguyên khoáng sản, là một trong những nơi sớm sản sinh ra đội ngũ công nhân mỏ, góp phần làm cho giai cấp công nhân Việt Nam lớn mạnh vượt bậc trong những năm đầu của thế kỷ XIX. Vùng đất Mạo Khê cũng là một trong những nơi sớm được truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng tiến bộ nhất của thời đại kết hợp với chủ nghĩa yêu nước Việt Nam.
Mỏ Mạo Khê là một trong những khai trường được khai thác khá sớm (từ năm 1846), dưới hình thức trưng khai của một số thương nhân nước ngoài. Ngày 15 tháng 10 năm 1920, Công ty than gầy Bắc kỳ ra đời, thì việc khai thác than ở đây được mở rộng và trở thành một mỏ khai thác khá lớn. Quá trình mở rộng khai thác than của bọn thực dân Pháp cũng là quá trình hình thành đội ngũ công nhân mỏ ở mỏ Mạo Khê nói riêng, Quảng Ninh nói chung. Đội ngũ công nhân mỏ ngày càng đông đảo và tập trung. Mạo Khê và Quảng Ninh đã trở thành một trong cái nôi của giai cấp công nhân Việt Nam.
Từ năm 1926 đến năm 1929 nhiều thanh niên trí thức tiểu tư sản có lòng yêu nước, tinh thần dân tộc được giác ngộ cách mạng, và hội viên của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đi “vô sản hoá” đã về làm việc tại nhà máy cơ khí của mỏ Mạo Khê. Tại đây họ tuyên truyền tư tưởng cách mạng, tuyên truyền chủ nghĩa Mác – Lênin vào đội ngũ công nhân, để rồi sau đó tiến tới thành lập chi bộ Việt Nam Cách mạng Thanh niên tại mỏ Mạo Khê.
Để Lãnh đạo phong trào công nhân có hiệu quả, những người lãnh đạo phong trào cách mạng ở mỏ Mạo Khê thường bí mật họp bàn công việc và gặp gỡ đại diện công nhân tại chùa Non Đông bàn bạc và triển khai kế hoạch đấu tranh. Từ đây, chùa Non Đông không chỉ là nơi sinh hoạt tôn giáo tâm linh mà còn là cơ sở bí mật của tổ chức lãnh đạo phong trào công nhân mỏ Mạo Khê.
Nhờ sự phát triển mạnh mẽ của phong trào công nhân, nên sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (ngày 3 tháng 2 năm 1930), chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam đầu tiên ở Quảng Ninh đã được thành lập tại một căn lều nhỏ nằm ở phía Nam mỏ Mạo Khê. Vì vậy di tích có tên: Khu di tích lịch sử Mỏ than Mạo Khê. Khu di tích gồm 3 địa điểm:
- Nhà máy cơ khí, nơi các trí thức yêu nước, giác ngộ cách mạng đến tuyên truyền tư tưởng cách mạng, tuyên truyền tư tương Mác-Lênin; nơi các hội viên Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên dùng làm địa điểm để tiến hành “Vô sản hoá”.
- Chùa Non Đông, cơ sở bí mật của tổ chức Đông Dương Cộng sản Đảng ở Mạo Khê năm 1929-1930, nơi đồng chí Nguyễn Văn Cừ và anh em công nhân thường bí mật gặp gỡ bàn bạc công việc hàng ngày.
- Nơi thành lập chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam đầu tiên ở khu mỏ Quảng Ninh.
2. Địa điểm và đường đi đến di tích.
- Địa điểm:
Khu di tích lịch sử mỏ than Mạo Khê nằm trên địa phận phường Mạo Khê, thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh.
2. Đường đi đến di tích:
Từ thành phố Hạ Long thủ phủ của tỉnh Quảng Ninh, đi theo quốc lộ 18A về phía Hà Nội khoảng 58 km (qua bến xe Mạo Khê), đến ngã tư đường vào mỏ (ngã Tư phố Hai), rẽ phải đi theo đường Nguyễn Văn Đài khoảng 3km đến trụ sở Công ty than Mạo Khê.
– Từ trụ sở Công ty than Mạo Khê, đi ngược trở lại đường Nguyễn Văn Đài khoảng 300m rẽ phải đi theo đường lên mỏ khoảng gần 1km đến ba ri e kiểm soát các phương tiện ra vào mỏ. Qua barie 50m, bên trái là nhà máy cơ khí – nơi các hội viên Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên dùng làm địa điểm để tiến hành “Vô sản hoá”. Địa điểm này nằm trên địa bàn khu Đoàn Kết, phường Mạo Khê
– Từ trụ sở Công ty than Mạo Khê, đi tiếp theo đường liên khu Công Nông khoảng 1.5km đến ngã ba đường Công Nông và đường Nguyễn Văn Cừ rẽ trái đi khoảng 1km là tới chùa Non Đông – cơ sở bí mật của tổ chức Đông Dương Cộng sản Đảng năm 1929 – 1930. Địa điểm này nằm trên địa bàn khu Vĩnh Lập, phường Mạo Khê
Tới chùa Non Đông còn một đường đi khác, đó là từ chợ Mạo Khê theo đường Nguyễn Văn Cừ đi khoảng 1.5km là tới chùa Non Đông.
– Từ trụ sở Công ty than Mạo Khê đi khoảng 100m, rẽ phải khoảng 500m là tới địa điểm thành lập chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam đầu tiên ở Quảng Ninh. Địa điểm này nằm trên địa bàn tổ I, khu Dân Chủ, phường Mạo Khê.
- Phân loại di tích:
Mỏ than Mạo Khê là một trong những mỏ than lớn của khu mỏ Quảng Ninh. Từ năm 1926, Hạ Bá Cang một thanh niên trí thức yêu nước đã đến đây tuyên truyền giác ngộ cách mạng cho công nhân mỏ.
Năm 1928-1929, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên – tổ chức tiền thân chính đảng của giai cấp công nhân Việt Nam đã phái nhiều hội viên là thanh niên trí thức tiểu tư sản đến “Vô sản hoá” nhằm thâm nhập giai cấp công nhân để vừa tự rèn luyện mình thành người vô sản, vừa phát động phong trào đấu tranh của công nhân. Nhà máy cơ khí là nơi các hội viên đến làm việc và thâm nhập phát động phong trào.
Chùa Non Đông là nơi gặp gỡ, họp bàn và triển khai kế hoạch đấu tranh. Sự phát triển của phong trào công nhân là yếu tố tích cực để tạo điều kiện cho chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời sớm tại Mạo Khê.
Căn cứ luật Di sản văn hóa ngày 29 tháng 6 năm 2001, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật di sản văn hóa ngày 18 tháng 6 năm 2009; Nghị định số 98/2010/NĐ-CP ngày 21 tháng 9 năm 2010 của Chính phủ, Khu di tích lịch sử mỏ than Mạo Khê thuộc loại hình di tích lịch sử.
- Sự kiện, nhân vật lịch sử.
Mỏ Mạo Khê nằm trên địa phận phường Mạo Khê, thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh. Phía Đông của mỏ giáp xã Hoàng Quế, phía Tây giáp xã Kim Sơn, phía Nam giáp xã Yên Thọ và thị trấn Mạo Khê, phía Bắc là đồi núi cao giáp xã Bình Khê và xã Tràng Lương. Tính đến nay, mỏ Mạo Khê đã có lịch sử khai thác 180 năm và địa điểm khai thác than ở xã Yên Thọ (Mạo Khê) cũng chính là địa điểm khai thác than đá đầu tiên ở khu mỏ Quảng Ninh.
Khu mỏ Quảng Ninh trong đó có Mạo Khê mới bắt đầu được điều tra và thăm dò từ những năm đầu thế kỷ XIX, nhưng đã có sức hấp dẫn lớn đối với tư bản phương Tây đang trên đường bành trướng thế lực mở rộng chiếm đóng đất đai, độc chiếm thị trường và nguyên liệu. Hầu hết các nước tư bản như Anh, Pháp, Đức…đều ra sức nhòm ngó, muốn độc chiếm, đặc biệt là tư bản Pháp càng nôn nóng muốn sớm thâu tóm món lợi lớn.
Ngay sau khi chiếm đóng Hòn Gai, khống chế cả mặt biển Bắc kỳ và bảo đảm chủ quyền của thực dân Pháp trên vùng mỏ, tư bản Pháp đã nhanh chóng biến khu mỏ thành “Vương quốc” độc chiếm của bọn tư bản độc quyền Pháp. Vào cuối thế kỷ XIX, các vùng mỏ béo bở trong khu mỏ Quảng Ninh về cơ bản đã được thực dân Pháp phân chia xong cho các tên tư bản Pháp. Phần phía Tây khu mỏ Quảng Ninh có hai mỏ than quan trọng là mỏ Vàng Danh và mỏ Mạo Khê. Mỏ Mạo Khê, trước đó, trong thời Tự Đức, do một người Hoa kiều thuộc dòng họ Vạn Lợi trưng khai. Sau khi thực dân Pháp chiếm khu mỏ Quảng Ninh, mỏ Mạo Khê được cắt nhượng cho Mác-ti, một tên chủ đồn điền thực dân có vai vế.
Từ khi thực dân Pháp chiếm khu mỏ Quảng Ninh, Mạo Khê – Đông Triều là một trong những khu vực kinh tế quan trọng của tư bản Pháp ở Quảng Ninh. Đây cũng là địa bàn tập trung sự bóc lột nhằm vơ vét nguồn tài nguyên để phục vụ cho nước Pháp. Để khai thác nguồn tài nguyên quý của Mạo Khê, thực dân Pháp không từ một thủ đoạn nào, miễn là đạt được mục đích “bảo đảm siêu lợi nhuận thuộc địa cao nhất, nhanh nhất với một khối lượng đầu tư và gia công ít nhất, rẻ tiền nhất”. Bọn chủ mỏ chỉ quan tâm tới những điểm có nhiều than tốt, bán được giá. Chúng cho đào, phá tất cả những gì, miễn là lấy được than nhanh nhất. Chúng tận dụng mọi lao động kể cả phụ nữ và trẻ em.
Để duy trì sự vơ vét, bóc lột, bọn chủ mỏ vừa sử dụng bộ máy bạo lực của chính quyền thực dân như quân đội, cảnh sát, mật thám, nhà tù…vừa sử dụng bộ máy riêng do chúng đặt ra để theo dõi, cưỡng bức và đàn áp công nhân. Trong tổ chức khai thác, bọn chủ mỏ áp dụng biện pháp “bao thầu”. Chúng giao cho bọn cai thầu trực tiếp cai quản công việc trực tiếp khai thác ở các mỏ. Áp dụng biện pháp này, bọn chủ mỏ ít phải đối mặt với công nhân nhưng vẫn đảm bảo thu được lợi nhuận cao nhất.
Được giao quyền, bọn cai thầu dùng mọi biện pháp để bóc lột công nhân ở mức độ cao nhất. Người công nhân phải làm việc quần quật suốt từ 12 giờ đến 14 giờ trong một ngày, dưới sự thúc ép và roi vọt của chúng.
Do phải làm việc quá sức trong điều kiện không có chế độ bảo hộ lao động, sức khoẻ, tính mạng luôn bị đe doạ, nên không một công nhân nào vượt quá 20 ngày công trong một tháng. Bên cạnh đó, chủ mỏ, cai thầu áp dụng chính sách cầm lương của công nhân và đặt ra đủ kiểu cúp phạt, để bòn rút của công nhân. Ngoài ra, mỗi năm người công nhân còn phải nộp 3 đồng tiền sưu và các khoản tiền thuế đất, nhà, dụng cụ…Không những thế, họ còn bị dụ dỗ bởi các tệ nạn xã hội như cờ bạc, mại dâm, thuốc phiện…
Với chế độ áp bức như vậy, nên cuộc sống của người công nhân hết sức cơ cực. Hầu hết mọi người làm không đủ ăn, phải đi vay nặng lãi, ăn “gạo non”, bán “thẻ non” (mua gạo chịu với giá cao, bán thẻ giá thấp). Họ ở trong những lán trại dột nát, ẩm thấp, với những mảnh chiếu rách hoặc đống lá khô. Từ điều kiện sống đó, các bệnh tật phát sinh như: sốt rét, lao phổi…nhưng người công nhân không được chạy chữa. Ở khu mỏ Mạo Khê – Đông Triều có 9.950 công nhân, nhưng chỉ có một trạm xá với một ít thuốc chống sốt rét. Điều đó đã dẫn đến những cái chết oan ức của hàng chục thợ mỏ mỗi năm.
Nhân dân Mạo Khê – Đông Triều, ngay từ buổi đầu chống quân xâm lược đã liên tục đứng lên cầm vũ khí bảo vệ Tổ quốc, giáng trả kẻ địch những đòn mãnh liệt. Nhưng vì nhiều lý do khách quan và chủ quan, phong trào cách mạng đã không đi tới thành công. Từ đầu thế kỷ 20, tình hình trong và ngoài nước có nhiều biến đổi. Nhân dân ta đã chuyển hướng đấu tranh, kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh trên mặt trận chính trị, kinh tế, ngoại giao…nhằm lật đổ ách thống trị, giành độc lập dân tộc và dân chủ. Trong cuộc đấu tranh đó, giai cấp công nhân vừa là nhân tố mới gắn liền với giai cấp nông dân và toàn thể dân tộc.
Là một trong những cái nôi ra đời của giai cấp công nhân Việt Nam, công nhân ở Mạo Khê đã phát triển nhanh, mạnh vì chính sách bần cùng hoá người nông dân và chính sách vơ vét, bóc lột của thực dân Pháp. Công nhân Mạo Khê cũng mang đầy đủ các đặc tính chung của giai cấp công nhân Việt Nam. Đó là tình yêu quê hương, đất nước, tình đoàn kết thương yêu giúp đỡ lẫn nhau, cần cù, giản dị và sẵn sàng đứng lên cùng nhân dân cả nước xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Với chế độ cai trị thuộc địa của Thực dân Pháp, nhân dân Mạo Khê đã bị phân hoá thành nhiều giai cấp, tầng lớp xã hội mới. Trong đó giai cấp công nhân và nông dân bị áp bức bóc lột đến cùng cực, họ sẵn sàng vùng lên đánh đổ chế độ áp bức, bóc lột của thực dân phong kiến, đòi lại ruộng đất và quyền lợi được hưởng những thành quả lao động xứng đáng của mình. Trong quá trình đó đã xuất hiện một số cuộc đấu tranh của nông dân và công nhân. Tiêu biểu cho phong trào đấu tranh của công nhân mỏ thời kỳ 1925-1926 là cuộc bãi công của công nhân mỏ Mạo Khê năm 1925. Trong cuộc bãi công này, công nhân mỏ Mạo Khê đã kéo đến gặp chủ mỏ, đưa yêu sách, đòi tăng lương cho thợ: đàn ông từ 0,25 đồng lên 0,30 đồng (tiền Đông Dương). Thợ nhà máy đình công trước, rồi thợ lò tiếp theo. Tất cả đều kéo lên bàn giấy của chủ. Chủ mỏ ngoan cố và hoảng sợ kêu cứu mật thám từ Hải Phòng sang tìm cách đàn áp. Nhưng công nhân không nao núng, toàn bộ công nhân mỏ Mạo Khê đồng loạt nghỉ việc, và kiên quyết đòi chủ mỏ giải quyết yêu sách. Cuối cùng chủ mỏ phải nhượng bộ, tăng 10% lương cho thợ.
Cuộc bãi công năm 1925 của công nhân mỏ Mạo Khê vẫn còn là cuộc đấu tranh tự phát. Song cái mới, cái chủ yếu xuất hiện trong cuộc đấu tranh này là người thợ mỏ đã bắt đầu nhận thấy đối tượng chính của mình không còn là chiếc máy, tên cai, tên ký…mà là bọn chủ mỏ, và trong cuộc đấu tranh này, công nhân đã có yêu sách tương đối rõ rệt và đã bắt đầu có tổ chức trong đấu tranh.
Cuộc đấu tranh của công nhân mỏ Mạo Khê năm 1925 đánh dấu sự chuyển biến mới của phong trào cách mạng Khu mỏ nói chung và Mạo Khê nói riêng “nó không những rút ngắn thời kỳ tự phát của mình mà còn làm cho thời kỳ đó mang một yếu tố tự giác mới” (Hạ Bá Cang-Chặng đường nóng bỏng, NXB Lao động 1985)
Nằm trong vùng công nghiệp lớn, Mạo Khê sớm trở thành địa bàn quan trọng cho việc truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng cách mạng giải phóng dân tộc của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc.
Sau cuộc bãi công ở Mạo Khê năm 1925, công nhân Mạo Khê đã tiến một bước mới trong nhận thức về vị trí, vai trò của mình, mở đầu cho quá trình chuyển biến từ đấu tranh tự phát sang đấu tranh tự giác.
Ngày 7 tháng 12 năm 1925, Hạ Bá Cang (tức Hoàng Quốc Việt) cùng học sinh Hải Phòng đón đường Varen, Toàn quyền Đông Dương mới thay Méclanh, từ Đồ Sơn về Hải Phòng, để đưa yêu sách đòi ân xá cho cụ Phan Bội Châu. Tháng 1 năm 1926, Hạ Bá Cang bị trường Bách Nghệ Hải Phòng đuổi học. Tháng 8 năm 1926, Hạ Bá Cang đến Mạo Khê tìm việc làm. Biết Hạ Bá Cang là học sinh trường Bách nghệ Hải Phòng, các sếp xưởng, cai ký ở mỏ Mạo Khê vốn là cựu học sinh trường Bách nghệ, nên đã nhận anh vào làm việc ngay, với nhiệm vụ sửa chữa máy ở nhà máy cơ khí.
Trong cuốn “Chặng đường nóng bỏng” do Nhà xuất bản Lao động xuất bản năm 1985, đồng chí Hạ Bá Cang viết “Ra mỏ không chỉ trốn thoát sự truy nã của mật thám, cảnh sát, không chỉ để kiếm việc làm mà còn mang theo tinh thần phương pháp đấu tranh, truyền bá vào công nhân mỏ”.
Là một thanh niên giàu lòng yêu nước, căm thù giặc Pháp, đồng chí đã đem những điều mình hiểu biết được qua báo chí công khai lúc đó tuyên truyên giác ngộ cách mạng cho anh chị em thợ mỏ. Thông qua những câu chuyện về các bậc tiền bối cách mạng: Phạm Hồng Thái, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Ái Quốc; chuyện học sinh trường Bách nghệ đón đường Varen để đưa yêu sách phản đối án khổ sai chung thân của thực dân Pháp dành cho cụ Phan Bội Châu, và đòi chúng ân xá cho cụ; chuyện học sinh Hà nội gây áp lực với toà án đòi ân xá cho cụ Phan, chuyện ông Tú Doanh ra giữa toà xin đi tù thay cụ Phan…đồng chí dẫn dắt công nhân đi vào con đường cách mạng chống đế quốc và phong kiến. Đồng chí chọn những người tốt, lập hội thể thao, vận động anh em gây quỹ cứu tế, mua sách báo và tiến tới thành lập hội tương tế, giúp đỡ lẫn nhau trong đời sống hàng ngày. Những đề xuất của Hạ Bá Cang được nhiều công nhân ủng hộ, hưởng ứng. Hạ Bá Cang làm những công việc trên còn nhằm mục đích là tìm những người cùng chí hướng với mình.
Để thu hút nhiều anh chị em vào hội và đánh lạc hướng theo dõi của địch, hội tương tế tổ chức dưới hình thức một hội chơi họ gọi là “Long Thương đoàn”. “Long Thương đoàn” hoạt động với hình thức tập trung số vốn của các hội viên mở một cửa hiệu ở phố Mạo Khê. Đây chính là nơi liên lạc của các hội viên. Hàng ngày các hội viên vừa làm việc, vừa kết hợp tuyên truyền tư tưởng cách mạng vào đội ngũ công nhân nhằm khơi dậy tinh thần yêu nước, lòng căm thù chế độ áp bức của thực dân, phong kiến.
Cuối năm 1927, đồng chí Hạ Bá Cang trực tiếp chỉ đạo“Long Thương đoàn” đã đứng ra lãnh đạo cuộc đấu tranh của công nhân nhà máy cơ khí. Cuộc đấu tranh kéo dài 1 tuần thì thất bại vì diễn ra tự phát, không được chuẩn bị kỹ lưỡng. Tuy nhiên, cuộc đấu tranh cũng đã để lại bài học kinh nghiệm vô cùng quý giá cho phong trào công nhân, đồng thời làm cho bọn cai ký, chủ mỏ phải dè chừng mà bớt hà khắc, đánh đập công nhân mỏ.
“Long Thương đoàn” là một tổ chức quần chúng mang tính cách mạng đầu tiên ở Mạo Khê trước khi có Đảng. Mặc dù về tổ chức và hình thức còn ở mức độ thấp. Đây là hình thức đầu tiên tập hợp công nhân, tạo điều kiện hình thành những tổ chức cao hơn của công nhân mỏ Mạo Khê sau này. Người đầu tiên có công xây dựng và phát triển tổ chức này là đồng chí Hạ Bá Cang (Hoàng Quốc Việt), người thanh niên tràn đầy nhiệt huyết yêu nước, yêu đồng bào và lòng căm thù chế độ thực dân chủ mỏ. Với sự hiểu biết của mình đã truyền bá vào phong trào công nhân mỏ Mạo Khê chủ nghĩa yêu nước chân chính và cách mạng vô sản thế giới, về những nhiệm vụ của giai cấp công nhân nước ta…và phương pháp cách mạng.
Theo cuốn Lịch sử phong trào công nhân mỏ Quảng Ninh 1883-1945, Đồng chí Đinh Tiến Toán (đảng viên của Chi bộ Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Mạo Khê năm 1929) kể lại trong bài hồi ký Kỷ niệm cách mạng tháng Mười Nga ở Mạo Khê trong tập Những ngày ở mỏ do Ty Văn hoá Thông tin Quảng Ninh xuất bản năm 1971, về hoạt động của của đồng chí Hạ Bá Cang ở Mạo Khê trong thời kỳ này như sau:
“Trước tình cảnh của thợ thuyền bị bóc lột, bị áp bức như vậy, anh Cang thường nêu lên bàn bạc với chúng tôi. Ngày nghỉ anh Cang thường rủ chúng tôi đi qua chân núi Móng Chim vào trại Khách mua mía ăn, hoặc xuống suối tắm rồi cùng nhau tâm sự. Anh nói với chúng tôi nhiều chuyện, nhưng tôi nhớ nhất là một chuyện thợ thuyền nước Nga làm cách mạng, chuyện giai cấp vô sản thế giới nổi dậy ở nhiều nơi, chuyện thợ thuyền nước ta phải làm cách mạng như thế nào. Anh nói: muốn làm cách mạng thì phải đoàn kết nhau lại, ai nấy phải gia nhập vào tổ chức. Anh tập hợp chúng tôi lập ra hội Tương tế để giúp đỡ lẫn nhau về mặt vật chất và tinh thần. Để thu hút nhiều anh em thợ vào Hội này, đồng thời để đánh lạc hướng sự chú ý của địch, anh đề nghị với chúng tôi lập hội Tương tế dưới hình thức một hội chơi họ, gọi là “Long thương đoàn”.
Hoạt động của Hạ Bá Cang đã tạo cơ sở cho sự ra đời chi bộ Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở mỏ Mạo Khê vào đầu năm 1929, mặc dù lúc này Hạ Bá Cang chưa phải là đảng viên của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên.
Hạ Bá Cang (thường gọi là Sáu Cang), sinh ngày 28 tháng 5 năm 1905, tại làng Đáp Cầu, tổng Đỗ Xá, huyện Võ Giàng, tỉnh Bắc Ninh (nay là phường Đáp Cầu, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh). Ngay từ năm 1925, khi mới 20 tuổi đồng chí đã tham gia cách mạng, cùng hoạt động với các đồng chí Nguyễn Đức Cảnh, Ngô Gia Tự. Khi đang học năm thứ ba Trường Kỹ nghệ Thực hành ở Hải Phòng, đồng chí Hạ Bá Cang đã tham gia phong trào bãi khoá và biểu tình phản đối chính quyền thực dân kết án tử hình nhà yêu nước Phan Bội Châu. Bị đuổi học vào tháng 1 năm 1926 vì tham gia bãi khoá, vào tháng 8 năm 1926, đồng chí về Mạo Khê làm thợ sửa chữa máy trong nhà máy cơ khí ở mỏ Mạo Khê.
Trong thời gian làm thợ này, cuộc sống cơ cực của người công nhân mỏ xứ thuộc địa đã giúp đồng chí Hạ Bá Cang sớm hình thành ý thức đấu tranh chống áp bức, bất công. Trải nghiệm bằng chính cuộc sống bản thân, tiếp cận với những thông tin hàng ngày về các phong trào chính trị và yêu nước, đồng chí đã có cơ hội đúc rút kinh nghiệm quý báu từ thực tiễn và dễ dàng truyền bá lý tưởng cách mạng cho đồng nghiệp.
Đầu năm 1928, đồng chí Hạ Bá Cang rời Mạo Khê về Hải Phòng làm việc. Tháng 10 năm 1928, Hạ Bá Cang được kết nạp vào Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên
Ngày 17 tháng 6 năm 1929, Đông Dương Công sản Đảng được thành lập ở Bắc kỳ, Hạ Bá Cang trở thành đảng viên của Đông dương Cộng sản Đảng.
Tháng 7 năm 1929, đồng chí được tổ chức cử vào Nam hoạt động cách mạng bí mật.
Ngày 3 tháng 2 năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập, đồng chí hạ Bá Cang được giới thiệu vào Ban Chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng.
Tháng 4 năm 1930, Ban Chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng triệu tập các uỷ viên về miền Bắc họp Hội nghị lần thứ nhất. Trong những ngày chờ họp Hội nghị, một số đồng chí uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương lâm thời bị mật thám bắt. Đồng chí Hạ Bá Cang bị bắt ngày 14 tháng 5 năm 1930 tại Hải Phòng. Hơn sáu năm bị giam cầm trong các nhà tù của thực dân (từ tháng 5 năm 1930 đến tháng 11 năm 1936), lúc ở nhà tù Hải Phòng, lúc chuyển lên nhà tù Hoả Lò, đặc biệt khi bị đày ra địa ngục trần gian Côn Đảo, Hạ Bá Cang và các đồng chí của ông đã biến nhà tù đế quốc thành trường học cách mạng. Mặc dù bị quân thù tra tấn dã man, nếm trải đủ mọi âm mưu, thủ đoạn thâm độc, hèn hạ của chốn lao tù, Hạ Bá Cang luôn tâm niệm một điều: mỗi trận tra tấn của kẻ thù thực sự là một cuộc chiến đấu, đấu trí, đấu lực không cân sức, không thể buông xuôi, không thể đầu hàng, cũng không thể chết, phải tìm mọi cách vượt qua, chiến thắng và trở về với Đảng, với dân, với Hồ Chí Minh.
Năm 1936, khi vừa được trả tự do, đồng chí Hạ Bá Cang trở về hoạt động cách mạng ở Hà Nội, ông cùng một số đồng chí của mình khôi phục tổ chức Đảng và các tổ chức cách mạng ở Bắc Kỳ, phát động đấu tranh đòi các quyền tự do dân chủ.
Ngày 8 tháng 1 năm 1937, trong cuộc họp nhằm khôi phục Đảng ở Hải Phòng, Hạ Bá Cang được chỉ định vào Thành uỷ Hải Phòng.
Tháng 3 năm 1937, Hội nghị thành lập Xứ uỷ Bắc kỳ được tổ chức. Hội nghị đã cử sáu đồng chí tham gia Xứ uỷ Bắc kỳ trong đó có đồng chí Hạ Bá Cang. Hội nghị thành lập Xứ uỷ Bắc kỳ đã cử Nguyễn Văn Cừ, Hạ Bá Cang đại diện Xứ uỷ Bắc kỳ tham dự Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương được tổ chức tại Sài Gòn cuối tháng 8 đầu tháng 9 năm 1937. Tại Hội nghị toàn thể Ban Chấp hành Trung ương đồng chí được bầu bổ sung vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Cuối năm 1937, đồng chí được bầu làm Bí thư Xứ uỷ Bắc kỳ.
Năm 1938, do bị chính quyền trục xuất khỏi Hà Nội, Hạ Bá Cang về hoạt động ở Bắc Ninh, Bắc Giang.
Đầu năm 1940, trong Hội nghị tổ chức lại Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đồng chí Hạ Bá Cang được cử vào Ban Thường vụ Trung ương.
Tháng 5 năm 1941, Hạ Bá Cang tham dự Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc. Với tư cách là uỷ viên Thường vụ Trung ương Đảng, Hạ Bá Cang đã tích cực cùng với Đặng Xuân Khu và Hoàng Văn Thụ chuẩn bị các văn kiện của Hội nghị và góp phần quan trọng vào thành công của Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương.
Cuối năm 1944 đầu năm 1945, Hạ Bá Cang với tên mới là Hoàng Quốc Việt sang Trung Quốc thực hiện nhiệm vụ Nghị quyết Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương tháng 2 năm 1943 về quan hệ với Trung Quốc và các tổ chức của người Việt Nam ở Trung Quốc. Cuối tháng 4 năm 1945, Hoàng Quốc Việt về nước, ông tham gia lãnh đạo Tổng khởi nghĩa tháng Tám.
Ngay sau Đại hội Quốc dân tại Tân Trào (Tuyên Quang), Chiều tối 16 tháng 8 năm 1945, cụ Hồ Chí Minh cử đồng chí Hoàng quốc Việt và một đoàn cán bộ cao cấp thay mặt Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh vào Nam bộ để “chỉ đạo và kiểm tra việc khởi nghĩa giành chính quyền”. Ngày 27 tháng 8 năm 1945, Hoàng Quốc Việt từ Tân Trào vào Nam Bộ. Sau khi kết thúc nhiệm vụ Đặc phái viên của Trung ương và Tổng bộ Việt Minh ở miền Nam, tháng 2 năm 1946 Hoàng Quốc Việt ra miền Bắc và được Thường vụ Trung ương trao nhiệm vụ phụ trách công tác dân vận, mặt trận và công đoàn.
Tháng 1 năm 1950, Đại hội đại biểu toàn quốc Công đoàn Việt Nam lần thứ nhất khai mạc. Đại hội nhất trí lấy tên của tổ chức mình là Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, đồng chí Hoàng Quốc Việt được bầu là Chủ tịch
Tháng 2 năm 1951, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ hai Đảng Cộng sản Đông Dương họp từ ngày 11 đến 19 tháng 2, tại Đại hội Hoàng Quốc Việt được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng và là Uỷ viên Bộ Chính trị. Bộ Chính trị phân công Hoàng Quốc Việt tiếp tục phụ trách công tác dân vận và Trưởng ban Mặt trận của Đảng, kiêm phụ trách các tiểu ban Công vận và Thanh vận, Uỷ viên Ban Tổ chức, Uỷ viên Ban Lào, Miên.
Tháng 9 năm 1955, Đại hội Mặt trận Liên Việt họp tại thủ đô Hà Nội. Đại hội nhất trí thành lập Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Đồng chí Hoàng Quốc Việt được bầu là Uỷ viên Đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Ngày 15 tháng 7 năm 1960, tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khoá II nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hoà, đồng chí Hoàng Quốc Việt được bầu làm Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao.
Tháng 9 năm 1960, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ ba của Đảng Lao động Việt Nam họp tại thủ đô Hà Nội. Đại hội đã bầu Hoàng Quốc Việt vào Ban Chấp hành Trung ương khoá ba.
Tháng 6 năm 1976, Hội nghị thống nhất Công đoàn hai miền Nam – Bắc diễn ra tại thành phố Hồ Chí Minh. Hội nghị ra Nghị quyết về thống nhất Công đoàn cả nước, lấy tên gọi là Tổng Công đoàn Việt Nam. Hoàng Quốc Việt được bầu làm Chủ tịch Ban Chấp hành Tổng Công đoàn Việt Nam. .
Tháng 12 năm 1976, trong Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng, Hoàng Quốc Việt được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Ông tiếp tục giữ nhiều chức vụ: Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1977), Chủ tịch danh dự Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1983 và những năm tiếp theo), Đại biểu Quốc hội từ khóa V đến khoá VIII.
Liên tục trong khoảng 50 năm, đồng chí Hoàng Quốc Việt đều tham gia Ban Chấp hành Trung ương của Đảng, từng giữ các chức vụ quan trọng như: Bí thư Tổng bộ Việt Minh, Bí thư Xứ uỷ Bắc Kỳ, Chủ tịch Tổng Công đoàn Việt Nam, Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao, Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Năm 1992, đồng chí Hoàng Quốc Việt qua đời tại Hà Nội. Trải qua gần 70 năm hoạt động cách mạng, Hoàng Quốc Việt đã nêu gương sáng về sự trung thành với dân, với nước, về đạo đức cách mạng. Trong lời điếu của Ban Chấp hành Trung ương Đảng trong lễ tang đồng chí Hoàng Quốc Việt, do Tổng Bí thư Đỗ Mười đọc có đoạn: “Hoàng Quốc Việt để lại cho chúng ta tấm gương sáng về một chiến sĩ cách mạng bất khuất, trung kiên, liêm khiết, giản dị, chân thành và cởi mở với đồng chí, đồng bào, đặc biệt quan tâm đến người lao động, tính nguyên tắc kết hợp với tính linh hoạt, rất nghiêm khắc nhưng cũng rất khoan dung, được toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta yêu mến và kính trọng”.
Giữa lúc phong trào công nhân và phong trào dân tộc ở nước ta đòi hỏi ngày càng cấp thiết có người lãnh đạo theo đường lối đúng đắn để đưa sự nghiệp giải phóng dân tộc nước ta tiến lên, thì vào năm 1925, tại Quảng Châu (Trung Quốc) tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (gọi tắt là Thanh niên) được thành lập. Đây là đoàn thể cách mạng đầu tiên ở nước ta có tổ chức chặt chẽ, có tôn chỉ và mục đích rõ ràng. Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã ảnh hưởng nhanh chóng về nước. Từ năm 1927 trở đi, cơ sở của hội đã lan rộng, đặc biệt là ở Bắc kỳ, nơi công nghiệp phát triển ở nước ta lúc đó.
Trong thời gian đồng chí Hạ Bá Cang tuyên truyền cách mạng ở Mạo Khê, các hội viên của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, sau khi học xong các khoá đào tạo do đồng chí Nguyễn Ái Quốc tổ chức, đã tích cực gửi tài liệu cách mạng về Mạo Khê. Năm 1927, ở Quảng Châu (Trung Quốc) sau khi được đồng chí Trương Văn Vinh giao cho các tài liệu quan trọng như “Đường cách mệnh”, báo “Thanh niên”, bài nói của lãnh tụ Đảng Cộng sản Pháp, đồng chí Nguyễn Lương Bằng đã chuyển về Mạo Khê – Đông Triều để vận động phong trào cách mạng.
Ở Mạo Khê, sau khi đồng chí Hạ Bá Cang về Hải Phòng hoạt động (cuối năm 1927 đầu năm 1928), đồng chí Nguyễn Văn Lịch (tức Mẫn) được cử ra thay thế. Đây là đồng chí hội viên đầu tiên của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên về Mạo Khê hoạt động. Tại Mạo Khê, đồng chí Nguyễn Văn Lịch xin vào làm việc ở kho cơ khí mỏ Mạo Khê. Đồng chí nhanh chóng hoà nhập vào cuộc sống của công nhân mỏ. Đồng chí đã vạch trần bản chất xấu xa, tàn bạo của chế độ thực dân phong kiến và giảng giải cho anh em công nhân về chủ nghĩa Mác – Lênin, về tư tưởng cách mạng giải phóng dân tộc của đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Trong đó đồng chí nhấn mạnh vai trò sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và vạch rõ tính chất cùng các phương pháp, hình thức đấu tranh trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở nước ta.
Vào giữa năm 1928, tổ chức của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã có những bước phát triển khá mạnh trong các tỉnh thành ở phía Bắc. Tuy nhiên, cơ sở của Hội vẫn còn quá ít trong các hầm mỏ, xí nghiệp. Hội viên phần lớn là thanh niên học sinh chưa qua môi trường hoạt động thực tiễn của phong trào công nhân. Trước tình hình đó, ngày 28 tháng 8 năm 1928, Kỳ bộ Bắc kỳ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã họp hội nghị và ra chủ trương đưa hội viên đi “vô sản hoá” ở các xí nghiệp, nhà máy hầm mỏ. Chủ trương này nhằm mở rộng tổ chức cơ sở của Hội trong phong trào công nhân, đồng thời tạo điều kiện cho các hội viên thông qua thực tiễn đấu tranh của phong trào công nhân để củng cố lập trường giai cấp của mình.
Thực hiện chủ trương của Kỳ bộ Bắc kỳ, trong thời gian này rất nhiều hội viên đã tự nguyện đi vào nhà máy, xí nghiệp, đồn điền, hầm mỏ cùng lao động, sinh hoạt, cùng đấu tranh với công nhân. Thông qua hoạt động tích cực của họ, chủ nghĩa Mác – Lênin, con đường cứu nước và giải phóng dân tộc đã từng bước thâm nhập rộng rãi trong phong trào công nhân. Qua đó tổ chức cơ sở của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã được mở rộng đến nhiều xí nghiệp, nhà máy, hầm mỏ, nhất là khu vực mỏ than vùng Đông Bắc. Phong trào này đã có tác dụng lớn đối với sự trưởng thành của giai cấp công nhân cả nước, đặc biệt là công nhân vùng mỏ.
Ngay sau khi triển khai phong trào, nhiều hội viên của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, được cử về Mạo Khê cùng đồng chí Nguyễn Văn Lịch mở rộng phạm vi và tăng cường nội dung hoạt động, “bắt rễ” và phát triển tổ chức vào những thợ mỏ do đồng chí Hạ Bá Cang giác ngộ. Đến tháng 3 năm 1929, chi bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Mạo Khê được thành lập. Chi bộ gồm có các đồng chí Nguyễn Văn Lịch, Bùi Văn Mạo, Đinh Tiến Toán, Vũ Huy Sán (tức Thảo), đồng chí Khoáng và đồng chí Tước.
Trong Chi bộ đồng chí Toán được phân công giữ truyền đơn, tài liệu, cờ đỏ. Đồng chí Mạo phụ trách dạy văn hoá cho anh em hội viên chưa biết chữ. Ban ngày lấy cớ xuống lò chữa máy bơm, đồng chí Toán đã bí mật dạy cho anh em thợ lò học chữ, buổi tối đồng chí mở lớp dạy ở phố cho chị em nhà sàng, chị em làm đường và chị em tiểu thương.
Sự ra đời của Chi bộ Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Mạo Khê, đã thúc đẩy và phát triển mạnh mẽ, rộng khắp công tác tuyên truyền, giác ngộ cách mạng đối với công nhân; ý thức đấu tranh của công nhân đã vượt ra khỏi phạm vi của mình, để liên hệ với cuộc đấu tranh của công nhân các địa bàn khác trong cả nước (vừa ra đời, chi bộ Thanh niên ở Mạo Khê đã vận động công nhân quyên góp tiền ủng hộ cuộc đấu tranh của công nhân xưởng A-vi-a ở Hà Nội. Đây là việc làm tuy nhỏ nhưng có ý nghĩa lớn. Nó chứng tỏ nhận thức chính trị về giai cấp của người thợ mỏ, về tinh thần đoàn kết chiến đấu của họ không chỉ diễn ra trong phạm vi phân xưởng, nhà máy, hầm mỏ, mà mở rộng trên phạm vi toàn quốc).
(Ngày 28 tháng 5 năm 1929, công nhân xưởng AVIA Hà Nội dưới sự lãnh đạo của chi bộ cộng sản do đồng chí Ngô Gia tự phụ trách đã tổ chức bãi công chống giới chủ, đòi quyền lợi về đời sống; kinh tế và yêu sách chính trị. Để ủng hộ cuộc đấu tranh này, chi bộ Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Mạo Khê đã vận động công nhân tự nguyện đóng góp tiền của, tạo điều kiện cho cuộc đấu tranh thắng lợi).
Chi bộ “Thanh niên” ở Mạo Khê vừa ra đời được 3 tháng thì Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên giải tán. Ngày 17 tháng 6 năm 1929, hơn 20 đại biểu thuộc các tổ chức cộng sản mới thành lập ở các tỉnh Bắc kỳ đã tiến hành hội nghị ở Hà Nội, quyết định thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng. Hội nghị quyết định tuyển lựa những người tiên tiến nhất, tích cực nhất của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên để kết nạp vào Đảng. Nguyễn Văn Cừ, Lê Văn L:ương và nhiều đồng chí ưu tú khác đã được công nhận là những đảng viên thuộc lớp đầu tiên của Đông Dương Cộng sản Đảng.
Tại Mạo Khê, chi bộ Đông Dương Cộng sản Đảng được thành lập gồm 7 đồng chí: Trần Văn Trí, Ngô Đình Mẫn, Đinh Tiến Toán, Bùi Văn Mạo, Bùi Đức Giao, Trần Văn Tước và Nguyễn Huy Sán.
Để đáp ứng yêu cầu phát triển của phong trào công nhân cả nước, ngày 27 tháng 7 năm 1929, hội nghị đại biểu Công hội đỏ Bắc kỳ đã diễn ra tại số nhà 15 phố Hàng Nón – Hà Nội. Hội nghị quyết định thành lập Tổng Công hội đỏ Bắc kỳ. Đồng chí Nguyễn Huy Sán đại biểu Công hội đỏ Mạo Khê đã vinh dự được thay mặt cho đội ngũ công nhân khu mỏ về dự. Đồng chí được hội nghị bầu là uỷ viên Ban chấp hàng Tổng công hội đỏ Bắc kỳ. Sau khi thành lập Tổng công hội đỏ Bắc kỳ, nhiều cán bộ đã được cử về “vô sản hoá” ở mỏ Mạo Khê.
Sau chuyến đi công tác kiểm tra ngắn ngày tại Cẩm Phả, Cửa Ông, đồng chí Nguyễn Văn Cừ phái viên của Trung ương được cử về khu mỏ Mạo Khê – một nơi có truyền thống đấu tranh và có cơ sở của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên từ rất sớm, nhưng lúc này đang gặp khó khăn do địch tăng cường đàn áp, đồng chí Nguyễn Văn Mẫn cán bộ phụ trách ở đây đã bị lộ phải rút về Hà Nội.
Về Mạo Khê, Nguyễn Văn Cừ (lấy bí danh là Phùng Ngọc Tường) đóng vai làm phu gánh than cho người cai lò là hội viên Công hội đỏ. Đồng chí cùng ở với một số thợ lò trong một căn lều tranh ẩn mình giữa đồi sắn rộng ở phía Nam mỏ Mạo Khê (nay thuộc khu Dân Chủ, phường Mạo Khê). Trong lều không có giường nằm, không bàn ghế, chỉ có vài ba chiếc niêu đất, mấy cái bát ăn cơm và một thùng sắt tây gỉ đựng gạo. Ban đêm về trời có sương lạnh, nằm trên đống lá sắn khô, Nguyễn Văn Cừ và mấy anh em phu thợ truyền hơi ấm cho nhau rồi cố chợp mắt để sang mai dậy sớm đi làm. Chính tại túp lều này, nhiều đêm Nguyễn Văn Cừ đã hội họp cùng anh em cán bộ cốt cán của khu mỏ Mạo Khê. Ngoài ra, anh còn thiết lập hộp thư bí mật ở chùa Non Đông, một địa điểm cách trung tâm mỏ không xa, nhưng kín đáo, thuận tiện cho việc hội họp.
Non Đông là một ngôi chùa cổ khá bề thế toạ lạc ở giáp chân núi, các nhà sư chùa Non Đông đã được Nguyễn Văn Cừ giác ngộ cách mạng, cho đào hầm bí mật ngay ở khu vực cửa tam quan, nuôi giấu cán bộ mỗi khi địch lùng sục bất ngờ. Bình thường khi tổ chức hội họp, trong vai những thiện nam tín nữ đến chùa lễ Phật, cán bộ đến họp trong chùa, ở ngoài đã có các nhà sư canh gác an toàn, bọn mật thám cũng ít khi để ý.
Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Văn Cừ, phong trào cách mạng ở Mạo Khê từng bước được củng cố và phát triển vững chắc. Đặc biệt, trong dịp kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1929, mỏ Mạo Khê tổ chức rất chu đáo, rầm rộ và gây được tiếng vang lớn. Chỉ đạo phối hợp hành động giữa các bộ phận được đồng chí Nguyễn Văn Cừ phân công cụ thể, các đồng chí được giao nhiệm vụ thực hiện rất nhịp nhàng.
Trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào công nhân, chi bộ Đông Dương Cộng sản Mạo Khê quyết định thành lập “Công hội đỏ” ở Mạo Khê mà thành viên là những công nhân có tinh thần đấu tranh và giác ngộ cách mạng. Chi bộ Đông Dương Cộng sản Đảng, “Hội Ái hữu” và “Công hội đỏ” ở Mạo Khê là những tổ chức hoạt động mạnh nhất trong những năm 1929-1930.
Cuối năm 1929, thực hiện chủ trương của Tổng Công hội đỏ Bắc kỳ về việc lãnh đạo công nhân cả nước đấu tranh nhân dịp kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại (ngày 7 tháng 11), dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Văn Cừ, chi bộ Đông Dương Cộng sản Đảng Mạo Khê đã tích cực chuẩn bị về mọi mặt. Thực hiện sự phân công của chi bộ Đông Dương Cộng sản Đảng, sáng sớm ngày 7 tháng 11 năm 1929, trong lúc anh em lò Hạ Chiểu bắt đầu đi làm qua phố Mạo Khê, đồng chí Đinh Tiến Toán và đồng chí Khoán đã đóng giả người phu cuốc lò rải truyền đơn ở cổng nhà máy cơ khí, cửa lò và những nơi thợ hay ngồi nghỉ. Cũng trong thời điểm đó, cờ đỏ búa liềm đã được treo lên cột điện giữa phố Mạo Khê. Buổi chiều cùng ngày, đúng lúc công nhân đi làm về, đồng chí Bùi Văn Mạo, làm công nhân ở nhà máy cơ khí đã lái chiếc đầu tàu chở than số 4 có cắm cờ đỏ búa liềm, hai bên dán biểu ngữ chào mừng Cách mạng Tháng Mười Nga, chạy trên đoạn đường 3km từ lò Bêxanh (nhà máy cơ khí) ra cảng Bến Cân và ngược lại. Chiếc đầu tàu xuất hiện đã thu hút được sự chú ý của toàn thể công nhân mỏ, tạo không khí phấn khích lòng người dân khu mỏ, thúc đẩy phong trào đấu tranh của công nhân và nhân dân lao động khu mỏ.
Cuộc kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười Nga lần đầu tiên ở mỏ Mạo Khê đã có tác động lớn đến tư tưởng, tình cảm, ý chí, nguyện vọng và nâng cao tầm nhận thức cách mạng của anh em công nhân; không những làm cho ảnh hưởng của Đông Dương Cộng sản Đảng thấm sâu vào các tầng lớp nhân dân lao động, mà còn là một dịp làm cho công nhân vùng mỏ và quần chúng lao động hiểu hơn về Cách mạng Tháng Mười, về Liên Xô vĩ đại.
Sau đợt kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười Nga, bọn chủ mỏ thực dân Pháp đã tăng cường các biện pháp khủng bố và đàn áp, nhưng chúng không thể ngăn được ảnh hưởng của Đảng ngày càng thấm sâu vào phong trào công nhân và quần chúng lao động ở mỏ. Các chi bộ Đông Dương Cộng sản Đảng ở khu mỏ vẫn không ngừng lớn mạnh về mặt tổ chức và đông đảo về số lượng đảng viên, uy tín của Đảng ngày càng cao.
Giữa lúc phong trào cách mạng vùng than nói riêng và phong trào cách mạng cả nước nói chung đang phát triển mạnh mẽ, tin vui bay về làm nức lòng công nhân mỏ, một sự kiện có ý nghĩa lịch sử trọng đại: Ngày 3 tháng 2 năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập. Đây là bước ngoặt quan trọng mở đường cho thắng lợi của cách mạng nước ta.
Hưởng ứng lời kêu gọi của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc nhân sự kiện thành lập Đảng, được sự chỉ đạo của Trung ương, trực tiếp là đồng chí Nguyễn Đức Cảnh, Nguyễn Văn Cừ và một số cán bộ cốt cán ở Mạo Khê đã tổ chức thành lập chi bộ. Ngày 23 tháng 2 năm 1930, tại căn lều tranh trên đồi sắn ở phía Nam mỏ Mạo Khê, nơi đồng chí Nguyễn Văn Cừ đã ở cùng một số công nhân mỏ một thời gian (nay thuộc khu Dân Chủ, phường Mạo Khê), đã diễn ra hội nghị thành lập chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam ở Mạo Khê. Tham gia Hội nghị thành lập chi bộ Mạo Khê có năm đồng chí: Đặng Châu Tuệ, Vũ Thị Mai, Nguyễn Huy Sán, Bùi Văn Mạo, Bùi Đức Giao.
Sắp đến giờ khai mạc cuộc họp thì đồng chí Nguyễn Văn Cừ bị lên một cơn sốt nặng, hai chân phù thũng không thể đi được, đồng chí phải nhờ hai đồng chí Bùi Văn Mạo và Bùi Đức Giao thay phiên nhau cõng đồng chí đến lán họp. Đến nơi, đồng chí ngồi trên một cái chõng để điều khiển cuộc họp. Bắt đầu vào cuộc họp, đồng chí Nguyễn Văn Cừ tuyên bố “Cuộc họp hôm nay là để tổ chức các đồng chí vào một chi bộ của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tôi xin giới thiệu đồng chí Trọng (tức Nguyễn Đức Cảnh) thay mặt Tỉnh uỷ chủ trì cuộc họp hôm nay”. Là người phụ trách khu mỏ đã đồng chí Nguyễn Đức Cảnh thay mặt Đảng Cộng sản Việt Nam công nhận từng đồng chí vào Đảng và tuyên bố thành lập chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam. Đồng chí Đặng Châu Tuệ được chỉ định làm Bí thư chi bộ. Đồng chí Nguyễn Văn Cừ và đồng chí Nguyễn Đức Cảnh căn dặn các đảng viên “Luôn luôn nâng cao tinh thần chiến đấu và phẩm chất cao cả của người đảng viên cộng sản”. Đồng chí Đặng Châu Tuệ một trong năm người được kết nạp Đảng hôm đó kể lại “sau khi đồng chí Nguyễn Văn Cừ giới thiệu, lúc ấy đồng chí Trọng mới rút cờ búa liềm ra treo lên vách. Mọi người nghiêm trang chào lá cờ của giai cấp vô sản. Tiếp đó đồng chí Trọng giới thiệu tôn chỉ, mục đích của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhiệm vụ quyền hạn của đảng viên và những nhiệm vụ trước mắt của Đảng. Đồng chí Phùng lần lượt giới thiệu lý lịch từng người để đồng chí Trọng công nhận và giao nhiệm vụ. Có đồng chí đã khóc vì cảm động và sung sướng được trở thành đảng viên của Đảng tiền phong. Tôi được chỉ định làm Bí thư chi bộ”.
Tại hội nghị này, chi bộ đã thảo luận và ra nghị quyết về một số nhiệm vụ trước mắt: đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động quần chúng, gây cơ sở ở nơi yết hầu của địch, nhất là ở các khu vực quan trọng của địch như nhà máy điện, xưởng cơ khí, nhà sàng, bến cảng…; phát động phong trào đấu tranh của quần chúng dưới nhiều hình thức để mở rộng ảnh hưởng của Đảng trong quần chúng nhân dân lao động. Mặc dù trong hoàn cảnh hết sức khó khăn, nhưng hội nghị thành lập chi bộ Đảng ở Mạo Khê được tổ chức đúng thủ tục và nguyên tắc của Đảng.
Chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam ở Mạo Khê, là một trong các chi bộ đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam ở khu mỏ Quảng Ninh, được thành lập theo đúng Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của Đảng, ngay sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Việc ra đời của chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam đầu tiên ở khu mỏ Quảng Ninh, đã mở ra một bước ngoặt quan trọng cho phong trào công nhân mỏ nói chung và phong trào cách mạng ở Mạo Khê – Đông Triều nói riêng. Từ đây phong trào cách mạng ở Mạo Khê – Đông Triều phát triển ngày càng mạnh mẽ, hoà chung với phong trào cách mạng của cả nước, dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hoạt động ở Mạo Khê một thời gian, qua tiếp xúc với công nhân và nông dân quanh vùng, đồng chí Nguyễn Văn Cừ còn nắm được tình hình hoạt động của tổ chức Việt Nam Quốc dân Đảng ở đây. Tuy ảnh hưởng của nó chỉ mới trong phạm vi một số cai, sếp và số ít công nhân, nhưng Nguyễn Văn Cừ đã chỉ thị cho chi bộ đảng phải chủ động ngăn chặn ảnh hưởng của tổ chức Quốc dân Đảng vào phong trào công nhân. Muốn thế chi bộ phải đẩy mạnh công tác giáo dục, tuyên truyền, giác ngộ quyền lợi cho bản thân công nhân nói riêng và giai cấp vô sản nói chung. Đồng chí chỉ rõ, có như thế chi bộ mới nắm chắc được giai cấp công nhân và phong trào công nhân, mới đảm bảo sự thống nhất về tư tưởng, chính trị, tổ chức và hành động của Đảng, tập hợp được quần chúng, đồng chí Nguyễn Văn Cừ còn nhắc nhở, chi bộ phải đảm bảo sự đoàn kết thống nhất trong nội bộ Đảng, trong giai cấp công nhân, công nhân với nông dân…vì đó là sức mạnh của tổ chức đảng.
Thành lập xong chi bộ Mạo Khê, đồng chí Nguyễn Văn Cừ được tổ chức phân công đi nhận nhiệm vụ mới. Trong vai trò là phái viên của Đảng tại vùng mỏ, đồng chí đến hoạt động ở nhiều nơi: Uông Bí, Hòn Gai, Hà Tu, Cẩm Phả, Cửa Ông…Tuy bận nhiều công việc, nhưng đồng chí vẫn dành thời gian về Mạo Khê giúp đỡ công tác của chi bộ, thường là duyệt bài cho tờ báo Than do chi bộ Mạo Khê xuất bản. Đây là tờ báo cách mạng đầu tiên được ấn hành ở Mạo Khê. Nội dung của báo tập trung phản ánh các vấn đề về tình hình thế giới, trong nước, đặc biệt là các vấn đề xảy ra tại vùng mỏ, nhằm tuyên truyền, giáo dục quần chúng về Đảng, về cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Trong những đợt kỷ niệm lớn, báo Than thường có những số đặc biệt, với nội dung phong phú. Trong số ra nhân dịp kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động 1/5, báo Than đã đăng bài “Quốc tế ca”dịch theo thể thơ lục bát để mọi người dễ đọc, dễ thuộc, dễ tuyên truyền; ngoài ra còn nhiều bài hò, hát, vận động công nhân, nông dân, binh lính cùng với các tin hoạt động của các tổ chức cách mạng. Đối với anh chị em công nhân tờ báo Than đã trở thành người bạn thân thiết. Mọi người truyền tay nhau đọc và thảo luận các nội dung cách mạng được đăng tải trên báo.
Cùng với báo Than, tại Mạo Khê còn lưu hành các loại báo khác của Đảng và giai cấp công nhân Việt Nam như các tờ báo Búa liềm, Công hội đỏ. Các tờ báo này đã góp phần quan trọng vào việc tuyên truyền đường lối cách mạng của Đảng, khơi dậy tinh thần dân tộc của các giai cấp và tầng lớp lao động xã hội ở Mạo Khê.
Với sự hoạt động tích cực, năng nổ và sự giúp đỡ có hiệu quả của đồng chí Nguyễn Văn Cừ, từ cuối tháng 2 đến tháng 4 năm 1930, các chi bộ Đảng ở Hòn Gai, Cẩm Phả, Cửa Ông, Uông Bí – Vàng Danh cũng lần lượt ra đời. Cùng với việc thành lập các chi bộ Đảng, các tổ chức quần chúng cũng được xây dựng với nhiều hình thức phong phú như: Công hội đỏ, Thanh niên Cộng sản đoàn, hội Phụ nữ, hội đá bóng, hội học chữ quốc ngữ…Thời kỳ này, cơ sở Đảng ở vùng mỏ đã thực sự ăn sâu, bám rễ trong quần chúng lao động, tạo điều kiện cho phong trào công nhân vùng mỏ phát triển mạnh mẽ.
Từ tháng 3 năm 1930, chi bộ Mạo Khê chủ trương phát triển đảng, mở rộng các tổ chức Công hội đỏ, Hội Tương tế, Hội Ái hữu nhằm củng cố và phát triển sức mạnh của cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ. Ban ngày các đồng chí đảng viên vẫn theo đơn vị sản xuất, xuống hầm lò, vào nhà máy, nhưng tối đến các đồng chí phân công nhau xuống các nhóm, tổ công nhân để tuyên truyền, huấn luyện cách mạng. Với những cố gắng đó, các tổ chức quần chúng của Đảng phát triển mạnh.
Nhằm bổ sung cho sức chiến đấu của Đảng, chi bộ đã lựa chọn được một số đồng chí từ những hội viên tích cực nhất trong tổ chức Công hội đỏ để kết nạp họ vào Đảng. Người đầu tiên được kết nạp vào Đảng là Đinh Tiến Toán-một thợ máy của mỏ, một quần chúng tốt đã được tôi luyện trong phong trào công nhân từ trước ngày có Đảng. Đồng chí Toán được cử làm người giữ quỹ của chi bộ. Sau đó chi bộ trực tiếp kết nạp thêm đồng chí Tước, đồng chí Thử. Đồng chí Tước được phân công phụ trách tự vệ của chi bộ
Trước sự trưởng thành nhanh chóng của các tổ chức cơ sở đảng và quần chúng, ngày 1 tháng 5 năm 1930, toàn khu mỏ vùng Đông Bắc đã hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng tổ chức kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động một cách sôi nổi, rộng khắp. Tại Đông Triều, chi bộ Mạo Khê đã tổ chức rải truyền đơn, căng biểu ngữ, dán áp phích, treo cờ đỏ búa liềm kêu gọi mọi người tham gia đấu tranh. Phong trào đã thu hút hàng trăm công nhân đứng lên đấu tranh đòi chủ mỏ tăng lương trên 25 xu/ngày, bảo đảm đủ dụng cụ khi làm việc, bảo đảm an toàn khi lao động, bỏ đánh đập và hãm hiếp phụ nữ…Đợt đấu tranh này của công nhân là một bước ngoặt đối với phong trào cách mạng năm 1930 và năm 1931 ở khu mỏ. Nó chứng minh rằng khi Đảng ra đời, công nhân mỏ được tập hợp lại dưới lá cờ của Đảng và tiến lên đấu tranh có tổ chức và liên tiếp giành được nhiều thắng lợi.
Trước sự phát triển của phong trào cách mạng khu mỏ. Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ nhất (tháng 10 năm 1930) đã quyết định thành lập Đảng bộ Đặc khu mỏ gồm Đông Triều, Hòn Gai, Cẩm Phả. Sau khi Đảng bộ Đặc khu mỏ được thành lập, phong trào cách mạng của giai cấp công nhân toàn khu mỏ nói chung, Mạo Khê – Đông Triều nói riêng ngày càng phát triển bất chấp sự khủng bố của địch. Trong tháng 10 và tháng 11 năm 1930, chi bộ Mạo Khê đã kêu gọi công nhân hưởng ứng việc Đảng bộ Đặc khu mỏ phát động phong trào đấu tranh ủng hộ “Nghệ Tĩnh đỏ” và kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười Nga. Từ ngày 4 tháng 11 năm 1930, việc rải truyền đơn và dán áp phích kêu gọi đấu tranh kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười Nga đã xuất hiện nhiều nơi ở Đông Triều. Ngày 7 tháng 11 năm 1930, cờ đỏ búa liềm lại tiếp tục tung bay trong các khu vực mỏ Mạo Khê. Các đồng chí đảng viên đã tích cực tới các cơ sở tuyên truyền với quần chúng về chủ nghĩa Mác – Lênin, về Cách mạng Tháng Mười Nga.
* Đồng chí Nguyễn Văn Cừ sinh ngày 9 tháng 7 năm 1912 (tức ngày 25 tháng 5 năm Nhâm Tý) trong một gia đình nhà nho nghèo thuộc dòng họ Nguyễn ở một vùng quê giàu truyền thống văn hoá, yêu nước và cách mạng, thuộc làng Phù Khê, tổng Nghĩa Lập, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh (nay là thôn Phù Khê, xã Phù Khê, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh), là hậu duệ đời thứ 17 của đại thi hào – danh nhân văn hoá Nguyễn Trãi. Ông nội của Nguyễn Văn Cừ là cụ Nguyễn Trọng Biền, đỗ tú tài rồi làm nghề dạy học. Cha của Nguyễn Văn Cừ là ông Nguyễn Ngọc Quán, tên thật là Nguyễn Trọng Mạo, là con thứ hai của cụ Nguyễn Trọng Biền nên dân làng thường gọi là ông Hai Quán. Ông ngoại của Nguyễn Văn Cừ là cụ Nguyễn Thực người làng Cẩm Giàng, xã Đồng Nguyên, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh (cách làng Phù Khê khoảng 3km).Cụ đỗ tú tài năm Thành Thái thứ 3 (1891), nên người ta thường gọi là cụ Tú Ba. Mẹ của Nguyễn Văn Cừ là bà Nguyễn Thị Khuyến, bà sinh ra trong một gia đình khá giả, tuy lúc về nhà chồng gặp phải hoàn cảnh khó khăn, nghèo túng, chồng lại đau yếu luôn, vất vả nhưng bà không hề kêu ca, mà hết lòng lo toan tần tảo vì gia đình.
Năm lên 6 tuổi, vì hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn, Nguyễn Văn Cừ được bố mẹ đưa sang gửi nhà ông bà ngoại, bên Cẩm Giàng, nhờ chăm nom và cho ăn học. Những năm tháng ở bên ông ngoại cũng chính là thời gian Nguyễn Văn Cừ được giáo dục, dạy dỗ, khơi dậy nhiều về truyền thống quê hương và niềm tự hào dân tộc. Thấy Nguyễn Văn Cừ thông minh, nhanh nhẹn, cụ Tú Ba quyết định cho anh đi học chữ quốc ngữ ở phủ Từ Sơn vào mùa thu năm 1922.
Sau ba năm học ở phủ Từ Sơn, thi đỗ Sơ đẳng tiểu học mùa hè năm 1925, Nguyễn Văn Cừ được ông bà ngoại và cha mẹ cho lên Trường kiêm bị Pháp – Việt ở tỉnh lỵ Bắc Ninh tiếp tục học tập. Khoảng cuối tháng 5 năm 1926, Nguyễn Văn Cừ dự kỳ thi tốt nghiệp tiểu học. Anh đỗ loại ưu và được cấp Bằng Tiểu học Pháp -Việt
Vốn là đứa trẻ có tính cương trực, lại mang trong mình dòng máu của một gia tộc yêu nước, sinh ra trên mảnh đất quê hương có truyền thống bất khuất kiên cường, luôn đi đầu trong các cuộc đấu tranh chống kẻ thù xâm lược, Nguyễn Văn Cừ sớm hấp thụ được tinh thần dân tộc, khí chất cứng cỏi, thanh bạch của tầng lớp trí sĩ đương thời. Từ lúc còn là đứa trẻ, trong anh đã bộc lộ tư chất của một người ham học hỏi, nhân cách cao thượng, trí tuệ thông minh của một người có bản lĩnh, chí hướng yêu nước và những hoài bão to lớn của một nhà cách mạng tương lai.
Khoảng giữa năm 1927, Nguyễn Văn Cừ lên Hà Nội dự thi vào Trường Bảo hộ. Trường Bảo hộ còn được gọi là Trường Bưởi – là trường trung học lớn nhất miền Bắc lúc bấy giờ. Trong thời gian học tập ở Trường Bưởi, với sự nỗ lực vượt bậc của bản thân, Nguyễn Văn Cừ đã trưởng thành nhanh chóng. Anh không chỉ tiếp thu được kiến thức văn hoá mà còn được bồi dưỡng tinh thần yêu nước và cách mạng đang có bước chuyển mình mạnh mẽ.
Trong thời gian Nguyễn Văn Cừ học ở Trường Bưởi, phong trào vận động yêu nước, cách mạng ở Việt Nam phát triển mạnh mẽ. Nhiều thanh niên sau khi đi dự lớp huấn luyện của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên trở về hoạt động tuyên truyền chủ nghĩa Mác – Lênin, thành lập các cơ sở ở nhiều địa phương. Trường Bưởi cũng là một cơ sở bí mật của Hội.
Ngay từ khi mới vào học, Nguyễn Văn Cừ đã được Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên phân công đồng chí Nguyễn Văn Quyên giúp đỡ, tuyên truyền, giác ngộ về tinh thần yêu nước và lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin. Qua một thời gian thử thách, đầu năm 1928, Nguyễn Văn Cừ được chi bộ tổ chức kết nạp vào Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên.
Vào khoảng cuối tháng 5 năm 1928, bị mật thám Pháp nghi ngờ tham gia “hội kín”, Nguyễn Văn Cừ bị Sở Mật thám Hà Nội bắt và thẩm vấn suốt 5 ngày, sau đó Hiệu trưởng Trường Bưởi lấy cớ anh có những “hành vi chống đối” ông ta đã ra quyết định đuổi học Nguyễn Văn Cừ.
Sau khi bị đuổi học, Nguyễn Văn Cừ ở lại Hà Nội hoạt động một thời gian, đến cuối tháng 6, anh đến làng Hà Lỗ thuộc phủ Từ Sơn (nay thuộc huyện Đông Anh) dạy học. Đang dạy học ở Hà Lỗ, Nguyễn Văn Cừ bị tên mật thám tỉnh Bắc Ninh bắt. Chúng gán cho anh tội hoạt động chính trị và giải về Sở Mật thám Hà Nội. Sau 12 ngày bị giam giữ thẩm vấn không thu được kết quả, mật thám Pháp buộc phải trả tự do cho Nguyễn Văn Cừ, nhưng bắt anh phải trở về nguyên quán. Bất chấp những lời đe doạ của mật thám Nguyễn Văn Cừ vẫn quay trở lại Hà Lỗ tiếp tục dạy học và nhanh chóng nối lại liên lạc với tổ chức. Anh nhận được chỉ thị tạm thời chờ đợi, khi có dịp tổ chức sẽ bố trí cho anh đi “vô sản hoá”.
Cuối tháng 9 năm 1928, Nguyễn Văn Cừ được đồng chí Ngô Gia Tự – Bí thư Tỉnh bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh Niên tỉnh Bắc Ninh trực tiếp giới thiệu với đồng chí Nguyễn Đức Cảnh – Bí thư Tỉnh bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên tỉnh Hải Phòng, móc nối liên lạc đưa ra hoạt động ở vùng mỏ than Đông Bắc.
Cuối năm 1928, với bí danh là Phùng, Nguyễn Văn Cừ đến hoạt động ở mỏ than Vàng Danh. Trong khi làm việc việc và hoạt động cùng anh em công nhân, Nguyễn Văn Cừ đã tuyên truyền chủ nghĩa Mác – Lênin trong công nhân Anh chỉ ra nguồn gốc của bao nỗi bất công, tủi khổ của người thợ, qua đó giác ngộ tinh thần dân tộc và ý thức đấu tranh chính trị cho họ. Đồng thời thông qua hoạt động thực tiễn bản thân đồng chí cũng ngày càng ý thức được sức mạnh và vai trò của giai cấp công nhân.
Sau một thời gian tuyên truyền, vận động và thử thách, Nguyễn Văn Cừ đã lựa chọn một số công nhân hăng hái, thành lập chi bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên mỏ Vàng Danh. Cùng với việc thành lập chi bộ, anh còn vận động quần chúng thành lập tổ chức Công hội của mỏ.
Ngày 17 tháng 6 năm 1929, Đông Dương Cộng sản Đảng được thành lập, Nguyễn Văn Cừ là một trong những người được công nhận là đảng viên đầu tiên của Đông Dương Cộng sản Đảng.
Năm 1929, đồng chí được phân công ra khu mỏ Quảng Ninh hoạt động. Do điều kiện làm việc và sinh sống ở mỏ hết sức khổ cực, đồng chí mắc bệnh sốt rét kinh niên, sưng lá lách và bị báng nặng, nhưng đồng chí vẫn hoạt động không ngừng. Đồng chí lấy những khổ cực của bản thân người thợ mỏ giáo dục họ, nên được anh em quý mến. Từ khi về mỏ hoạt động, đồng chí Nguyễn Văn Cừ trở thành người trực tiếp chỉ đạo phong trào công nhân và cộng sản ở vùng này. Đồng chí là người có công dìu dắt phong trào khu mỏ trong giai đoạn đang hình thành.
Ngày 15 tháng 2 năm 1931, trên đường đi công tác từ Cẩm Phả về Hòn Gai, đồng chí Nguyễn Văn Cừ bị thực dân Pháp bắt. Trong những ngày bị giam giữ ở nhà tù Hoả Lò, trong điều kiện nhà tù khắc nghiệt, ăn uống kham khổ, lại bị bọn cai tù đánh đập thường xuyên, nhưng Nguyễn Văn Cừ vẫn chịu khó học tập, ôn luyện những kiến thức lý luận, những kinh nghiệm cách mạng.
Ngày 16 tháng 5 năm 1931, Nguyễn Văn Cừ bị kết án khổ sai đầy đi Côn Đảo. Trong tù đồng chí lại tiếp tục đấu tranh và tranh thủ thời gian nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin và trở thành một cán bộ lý luận xuất sắc của Đảng. Với thắng lợi của Mặt trận nhân dân Pháp, buộc chính quyền thuộc địa Đông Dương phải ân xá chính trị phạm. Tháng 11 năm 1936, Nguyễn Văn Cừ mới được thực dân Pháp trả tự do trở về đất liền. Ra khỏi tù, đồng chí Nguyễn Văn Cừ về Hà Nội tiếp tục hoạt động. Tại Hà Nội Nguyễn Văn Cừ và một số đồng chí khác đã thực hiện một trong những nhiệm vụ trước mắt là khôi phục các hoạt động của các cơ sở đảng, xây dựng và phát triển đảng, nuôi dưỡng và đẩy mạnh phong trào của quần chúng.
Tháng 3 năm 1937, Hội nghị thành lập Xứ uỷ Bắc kỳ lâm thời được tiến hành. Nguyễn Văn Cừ được bầu vào Thường vụ Xứ uỷ và được Xứ uỷ phân công làm đại diện của Xứ uỷ bên cạnh Trung ương Đảng. Hội nghị cử Nguyễn Văn Cừ và Hạ Bá Cang đại diện cho Xứ uỷ Bắc kỳ đi dự Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tổ chức vào cuối tháng 8 đầu tháng 9 tại Sài Gòn.
Cuối tháng 8 năm 1937, Nguyễn Văn Cừ cùng Hạ Bá Cang từ Hà Nội vào Sài Gòn dự Hội nghị Trung ương Đảng. Hội nghị toàn thể Ban Chấp hành Trung ương lần này họp từ ngày 25 tháng 8 đến ngày 4 tháng 9 năm 1937. Nội dung chủ yếu của Hội nghị nhằm kiểm điểm tình hình, rút kinh nghiệm về cuộc vận động phong trào dân chủ, định ra đường lối, phương pháp tổ chức mới của Đảng để đoàn kết toàn dân trong một Mặt trận thống nhất chống đế quốc và bọn phản động thuộc địa, đòi dân sinh, dân chủ. Đồng chí Nguyễn Văn Cừ được Hội nghị bầu vào Ban Thường vụ Trung ương Đảng và được Trung ương phân công trở ra Bắc chỉ đạo phong trào cách mạng ở các tỉnh thuộc miền Bắc và bắc Trung kỳ (gồm cả Thanh – Nghệ – Tĩnh).
Ngay trong tháng 9-1937, Nguyễn Văn Cừ trở ra Bắc và triệu tập Hội nghị thành lập liên xứ uỷ Bắc kỳ và Bắc Trung kỳ. Hội nghị đề ra nhiệm vụ khôi phục và phát triển tổ chức đảng các cấp, đề ra các biện pháp nhằm phát triển đấu tranh và các hình thức hoạt động công khai, nửa công khai của Đảng cho phù hợp với tình hình mới. Đồng chí Nguyễn Văn Cừ được bầu vào Ban Thường vụ.
Đầu tháng 3 năm 1938, Nguyễn Văn Cừ bí mật rời Hà Nội đi Sài Gòn để dự Hội nghị Trung ương lần thứ năm.
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ năm được tiến hành trong hai ngày 29 và 30 tháng 3 năm 1938. Nội dung của Hội nghị lần này bàn tới các vấn đề rất quan trọng của cách mạng Việt Nam. Ngày 30 tháng 3 năm 1938, Hội nghị bầu ra Ban Chấp hành Trung ương Đảng, và bầu Ban Thường vụ Trung ương. Đồng chí Nguyễn Văn Cừ được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương.
Trải qua gần 10 năm hoạt động, lăn lộn trong phong trào cách mạng, vừa tự học, vừa rèn luyện, chịu đựng khó khăn gian khổ, vượt lên hy sinh và mất mát để trưởng thành. Nguyễn Văn Cừ đã trở thành Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng ta được đào tạo, rèn luyện và trưởng thành từ thực tiễn phong trào cách mạng ở trong nước và là một trong những Tổng Bí thư trẻ nhất của Đảng ta.
Đầu tháng 9 năm 1939, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ cùng một số đồng chí khác bí mật vào Nam bộ chuẩn bị cho Hội nghị Trung ương lần thứ sáu. Được sự giúp đỡ cộng tác của các đồng chí lãnh đạo Xứ uỷ Nam kỳ và Thành uỷ Sài Gòn – Chợ Lớn, đồng chí Nguyễn Văn Cừ đã khẩn trương biên soạn tài liệu Chính sách mới của Đảng – văn kiện chính thức của Hội nghị Trung ương lần này.
Trong các ngày 6-7-8 tháng 11 năm 1939, tại nhà ông Hai Hy tức Trần Văn Hy, ấp Tây – Bắc – Lân thuộc khu vực Mười tám thôn Vườn Trầu, xã Tân Thới Nhất (Hóc Môn, Gia Định), Hội nghị Trung ương lần thứ sáu đã được tiến hành dưới sự chủ trì của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ. Các đại biểu dự Hội nghị đã thảo luận tài liệu Chính sách mới do Tổng Bí thư soạn thảo, góp nhiều ý kiến bổ sung và thông qua với sự nhất trí cao. Những nội dung cơ bản của Chính sách mới đã được đưa thành Nghị quyết cơ bản của Hội nghị.
Ngay sau khi kết thúc Hội nghị Toàn thể Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ sáu (tháng 11-1939), các đại biểu khẩn trương trở về các địa phương để phổ biến, triển khai Nghị quyết của Đảng và lãnh đạo nhân dân chống lại sự khủng bố của kẻ thù. Lúc này, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ quyết định ở lại Nam kỳ, trực tiếp xuống các cơ sở kiểm tra đôn đốc và giải quyết kịp thời những vấn đề vướng mắc của địa phương khi triển khai Nghị quyết Trung ương lần thứ sáu.
Bọn mật thám, chỉ điểm của Pháp theo dõi đồng chí Nguyễn Văn Cừ từng bước, chúng rình rập quyết bắt cho được người chỉ huy cao nhất của Đảng Cộng sản ở Việt Nam. Rạng sáng ngày 17 tháng 1 năm 1940, cơ quan mật vụ Sài Gòn đã huy động một lực lượng lớn cảnh sát, mật thám, quân lính đến bao vây ngôi nhà 312 đường Nguyễn Tấn Nghiệm. Sau khi tiến hành lùng sục, chúng đã bắt được Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ và một số cán bộ cao cấp của Đảng, như Lê Duẩn, Vũ Đình Hiếu (tức Giáo Hoan)…và nhiều tài liệu quan trọng của Đảng.
Bắt được Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ, bọn mật thám Pháp đưa đồng chí về giam tại bót Catina (nay ở đường Đồng Khởi. Sau nhiều lần dùng cực hình tàn bạo đối với Nguyễn Văn Cừ mà không lấy được nửa lời khai, bọn địch đành chuyển đồng chí về Khám Lớn Sài Gòn để chờ ngày đem ra xét xử. Trong Khám Lớn, mặc dầu phải chịu đựng điều kiện khắc nghiệt của nhà tù đế quốc, Nguyễn Văn Cừ vẫn luôn hoạt động. Đồng chí giảng giải những vấn đề cơ bản về học thuyết Mác-Lênin, phổ biến nội dung tinh thần Nghị quyết Trung ương lần thứ sáu cho nhiều cán bộ, đảng viên.
Sau hơn nửa năm bị giam cầm tại Khám Lớn, cuối năm 1940, toà án thực dân Pháp liên tiếp mở ba phiên toà “xét xử” Nguyễn Văn Cừ và các đảng viên cộng sản (từ ngày 27-8-1940 đến ngày 3-9-1940, toà Tiểu hình Sài Gòn kết án Nguyễn Văn Cừ, mức án 5 năm tù và 10 năm quản thúc. Trung tuần tháng 10 năm 1940, toà án binh của thực dân Pháp kết án Nguyễn Văn Cừ 5 năm tù, 20 năm biệt xứ và 20 năm cấm các quyền dân sự và chính trị. Phiên toà Thượng thẩm Sài Gòn, ngày 22-10-1940, bọn thực dân lại tiếp tục đưa Nguyễn Văn Cừ ra xét xử và khép bản án 5 năm tù, mất quyền công dân và chính trị, 10 năm biệt xứ ).
Tháng 11 năm 1940, khởi nghĩa Nam kỳ bùng nổ. Thực dân Pháp khủng bố trắng để đàn áp phong trào cách mạng. Ngày 25 tháng 3 năm 1941, sau cuộc khởi nghĩa Nam kỳ, toà án binh Sài Gòn lại đưa Nguyễn Văn Cừ ra xét xử. Chúng quy kết các tội danh cho Tổng Bí thư là người khởi thảo nghị quyết thành lập Mặt trận thống nhất phản đế, người “chủ trương bạo động” đe doạ quyền lợi của “mẫu quốc”ở Đông Dương, người “chịu trách nhiệm tinh thần” của cuộc khởi nghĩa Nam kỳ. Toà kết án tử hình.
Vào lúc 6 giờ ngày 26 tháng 8 năm 1941, địch đưa Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ và một số đồng chí lãnh đạo của Đảng (Nguyễn Thị Minh Khai, Võ Văn Tần, Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Văn Tây, Nguyễn Văn Huân) đi xử bắn tại trường bắn Ngã Ba Giồng thuộc xã Bà Điểm, huyện Hóc Môn, tỉnh Gia Định (nay thuộc thành phố Hồ Chí Minh).
Trước sự chứng kiến của hơn 300 quần chúng, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ và các chiến sĩ cộng sản đã hiên ngang hô vang “những khẩu hiệu cộng sản” liên tục cho đến khi bị đạn thù bắn gục mới thôi.
Cùng với các đồng chí của mình, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ đã tỏ rõ khí phách của người cộng sản, hiên ngang chiến đấu đến hơi thở cuối cùng, đi vào cõi bất tử khi mới 29 tuổi thanh xuân.
Cuộc đời đồng chí Nguyễn Văn Cừ tuy ngắn ngủi nhưng rực rỡ hào quang. Hơn 13 năm hoạt động yêu nước và cách mạng, từng giữ nhiều trọng trách, trong đó có hai năm là Tổng Bí thư, đồng chí Nguyễn Văn Cừ đã in dấu ấn hoạt động trên cả ba miền đất nước và có những cống hiến hết sức to lớn. Sự hy sinh và khí tiết của Nguyễn Văn Cừ, là tấm gương sáng chói về tinh thần tận trung với nước, tận hiếu với dân; về tinh thần học tập phấn đấu theo lý tưởng mà mình lựa chọn.
Đồng chí Nguyễn Văn Cừ – người cộng sản lỗi lạc – nhà lý luận sáng tạo -Tổng Bí thư xuất sắc của Đảng. Cuộc đời đồng chí là một hình tượng cao đẹp về người cộng sản Việt Nam, mãi mãi là niềm tự hào vô hạn của Đảng và dân tộc ta.
Sau vụ bạo động của Việt Nam Quốc dân Đảng tháng 2 năm 1930 bị thất bại, nhất là sau cao trào cách mạng 1930 – 1931, thực dân Pháp vô cùng hoảng sợ, chúng tìm mọi cách để tiêu diệt phong trào cách mạng Việt Nam. Từ năm 1931 đến năm 1936, phong trào cách mạng tạm lui vào bí mật. Cuối năm 1936, nhờ những hoạt động tích cực của một số đảng viên tù chính trị được trả tự do và một số đảng viên ở nơi khác đến khu mỏ hoạt động, do ảnh hưởng của cuộc tổng bãi công của 3 vạn công nhân mỏ (ngày 12 tháng 11 năm 1936), công nhân mỏ Mạo Khê đã tổ chức đấu tranh phản đối hành động tàn bạo của cai sếp, đòi cải thiện chế độ lao động… đã giành được thắng lợi.
Từ năm 1939 đến năm 1944, phong trào công nhân mỏ Mạo Khê tuy gặp nhiều khó khăn thử thách vì phải đương đầu với hai tầng áp bức là thực dân Pháp và phát xít Nhật. Nhưng nhờ có sự giác ngộ cách mạng, xác định rõ kẻ thù giai cấp, kẻ thù dân tộc, có tinh thần đoàn kết và lòng yêu nước, nên công nhân Mạo Khê vẫn không ngừng đấu tranh, đình công, lãn công phá hoại kinh tế địch.
Năm 1944, nhiều cán bộ Việt Minh đã trở về vùng Mạo Khê – Đông Triều hoạt động. Cuối năm 1944, đồng chí Nguyễn Văn Đài từ nhà tù đế quốc trở về Mạo Khê – Đông Triều. Đồng chí đã xây dựng được tổ chức Việt Minh bí mật gồm 32 người do đồng chí Đào Văn Thịnh làm tổ trưởng. Thành lập được Việt Minh ở Mạo Khê là cơ sở tốt để chuẩn bị cùng nhân dân trong vùng đứng lên giành chính quyền cách mạng khi thời cơ đến.
Cuối năm 1944 đầu năm 1945, tại Mạo Khê – Đông Triều cơ sở Đảng và tổ chức Việt Minh được khôi phục, lực lượng bán vũ trang ngày càng đòi hỏi cần phải có vũ khí tự vệ chiến đấu, công nhân nhân mỏ Mạo Khê đã sử dụng máy móc, nguyên liệu của chủ mỏ, bí mật chế tạo, sửa chữa vũ khí để tự trang bị cho mình và cung cấp cho các vùng lân cận.
Sau một thời gian xây dựng lực lượng và căn cứ kháng Nhật, đến cuối tháng 5 năm 1945, các đoàn thể cứu quốc ở Đông Triều đã lớn mạnh, lực lượng vũ trang và bán vũ trang tăng nhanh. Ngày 8 tháng 6 năm 1945, thực hiện chủ trương của Đảng, cuộc khởi nghĩa giành chính quyền thành lập chiến khu Trần Hưng Đạo đã diễn ra. Rất nhiều công nhân mỏ Mạo Khê ra nhập nghĩa quân chiến khu. Mạo Khê trở thành căn cứ quan trọng và tiền đồn của chiến khu Trần Hưng Đạo. Sau khi khởi nghĩa giành thắng lợi, dưới sự lãnh đạo của chính quyền cách mạng, công nhân mỏ Mạo Khê đã tích cực cùng nhân dân tăng gia sản xuất, diệt giặc đói, giặc dốt, góp quỹ độc lập, xoá bỏ các tệ nạn xã hội, củng cố chính quyền cách mạng…
Khi thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta một lần nữa (12 – 1946), công nhân mỏ Mạo Khê đã tích cực tham gia lực lượng du kích, bộ đội địa phương, bộ đội chủ lực… để chiến đấu chống lại kẻ thù. Trước khi thực dân Pháp quay lại chiếm khu mỏ, công nhân Mạo Khê đã vận chuyển máy móc của nhà máy cơ khí đến nơi an toàn và sau đó vận chuyển lên Bắc Cạn (chiến khu Việt Bắc), góp phần vào việc xây dựng nên công binh xưởng đầu tiên của quân đội nhân dân Việt Nam, để sản xuất vũ khí đánh giặc.
Có thể nói, phong trào đấu tranh của công nhân mỏ Mạo Khê phát triển mạnh mẽ và tiến từ tự phát đến tự giác. Đây là kết quả to lớn của quá trình vận động cách mạng do đồng chí Hạ Bá Cang và các tổ chức “Việt Nam Cách mạng Thanh niên”; “Đông Dương Cộng sản Đảng” và cao nhất là “chi bộ Đảng Cộng Sản”. Các tổ chức này đã bằng nhiều hình thức hoạt động, gần gũi anh chị em công nhân để giác ngộ, tuyên truyền, vận động họ lên trường đấu tranh. Cũng có thể nói Mạo Khê là một trong những trung tâm của phong trào cách mạng khu mỏ, Công nhân mỏ Mạo Khê mang đầy đủ đặc tính chung của giai cấp công nhân Việt Nam, đó là tình yêu quê hương, đất nước, tình đoàn kết yêu thương giúp đỡ lẫn nhau, kiên cường đấu tranh và sẵn sang đứng lên cùng nhân dân cả nước chiến đấu giành lại độc lập, tự do cho dân tộc và xây dựng cuộc sống ấm lo, hạnh phúc. Chính vì vậy ngay từ những ngày đầu cách mạng, trong khởi nghĩa giành chính quyền Tháng Tám và trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược, Mạo Khê – Đông Triều luôn luôn được các cán bộ cách mạng chọn làm nơi gây dựng và phát triển phong trào, tiền đồn, căn cứ và chiến khu của cách mạng.
- Sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng liên quan đến di tích:
– Nhà máy cơ khí mỏ Mạo Khê, là nơi những thanh niên trí thức tiểu tư sản đến “Vô sản hoá” nhằm thâm nhập giai cấp công nhân để vừa tự rèn luyện mình thành người vô sản, vừa phát động phong trào đấu tranh của công nhân; nơi các hội viên đến làm việc và thâm nhập phát động phong trào. Nơi gặp gỡ, họp bàn và triển khai kế hoạch đấu tranh; Nơi thành lập chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam đầu tiên ở khu mỏ Quảng Ninh, không có các hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian truyền thống trong di tích.
Hàng năm, vào các dịp kỷ niệm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3/2); ngày thành lập mỏ Mạo Khê; ngày truyền thống công nhân mỏ – truyền thống ngành Than (12/11), các ngày lễ tết; các ngày kỷ niệm trọng đại của đất nước, Công ty than Mạo Khê, các đoàn cán bộ Thị ủy – Hội đồng nhân dân – Uỷ ban nhân dân thị xã Đông Triều và các tổ chức chính trị – xã hội của thị xã Đông Triều; đảng viên, cán bộ, nhân dân, học sinh các trường học trên địa bàn thị xã và phường Mạo Khê đều tổ chức các đoàn đến thăm, những nơi trước đây các đồng chí cán bộ cách mạng đã đến “vô sản hoá”. Tổ chức dâng hương, đặt vòng hoa, báo công, tại nơi thành lập chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam đầu tiên ở khu mỏ (nay là Nhà bia nơi thành lập chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam đầu tiên tại khu mỏ Quảng Ninh). Các hoạt động trên nhằm tri ân những đảng viên đầu tiên của Chi bộ đầu tiên Đảng Cộng sản Việt Nam ở Mạo Khê và ôn lại truyền thống đấu tranh kiên cường, bất khuất của công nhân mỏ Quảng Ninh nói chung, công nhân mỏ Mạo Khê nói riêng, đồng thời giáo dục truyền thống cho mọi thế hệ của địa phương, đặc biệt là thế hệ trẻ.
– Chùa Non Đông, cơ sở bí mật của tổ chức Đông Dương Cộng sản Đảng năm 1929-1930, vào ngày mùng Một và ngày Rằm âm lịch hàng tháng, nhân dân trong vùng và công nhân mỏ thường đến thắp hương vừa để lễ Phật vừa để tưởng nhớ và tri ân những cán bộ cách mạng tiền bối có công lao xây dựng và phát triển phong trào cách mạng ở Mạo Khê trong những năm cách mạng Việt Nam còn trong thời kỳ trứng nước.
- Khảo tả di tích:
Khu di tích lịch sử mỏ than Mao Khê có tổng diện tích S = 100.547.43 m2, trong đó:
– Nhà máy cơ khí có diện tích 4.622 m2 gồm: diện tích khoanh vùng bảo vệ khu vực 1 là S1 = 2.105.78 m2; diện tích khoanh vùng bảo vệ khu vực 2 là S2 = 2.516.22 m2.
– Nơi thành lập Chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam đầu tiên tại Mạo Khê có diện tích S = 925.43 m2 gồm: diện tích khoanh vùng bảo vệ khu vực 1- Khu vực nhà bia lưu niệm là S1 = 712 m2; diện tích khoanh vùng bảo vệ khu vực 2 – bãi đỗ xe là S2 = 213.43 m2.
– Chùa Non Đông có diện tích 95.000 m2 gồm: diện tích khoanh vùng bảo vệ khu vực 1 là S1 = 37.440 m2; diện tích khoanh vùng bảo vệ khu vực 2 là S2 = 57.000 m2.
- Nhà máy cơ khí, nơi các trí thức yêu nước, giác ngộ cách mạng đến tuyên truyền tư tưởng cách mạng, tuyên truyền tư tương Mác-Lênin; nơi các hội viên Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên dùng làm địa điểm để tiến hành “Vô sản hoá”.
Từ đường lên mỏ hiện nay nhìn vào, nhà máy cơ khí xưa nằm phía bên trái đường. Phía Đông giáp đất trồng cây lâm nghiệp, phía Đông Nam giáp đường lên mỏ, Phía Tây giáp đất sản xuất kinh doanh của Công ty than Mạo Khê.
Nhà máy cơ khí khi đó được xây dựng trên khu đất rộng khoảng 2500m2, có 2 dãy nhà cấp 4, mỗi dãy gồm 5 ngôi nhà, tường xây gạch, mái lợp tranh, mỗi ngôi nhà rộng khoảng 100m2-150m2. Những ngôi nhà này dùng làm nơi sửa chữa máy móc, xe goòng, đầu tàu hoả, nơi để hàng hoá và nơi ở của công nhân. Nhà máy lúc đó chỉ có một máy tiện, một máy khoan, một máy bào của Pháp. Trong nhà máy có hầm phốt (hầm Bêxanh) để sửa chữa đầu tầu hoả. Hầm được làm sâu dưới mặt đất 2m, dài 15m, rộng 3m.
Hiện toàn bộ nhà xưởng của nhà máy cơ khí thời kỳ “vô sản hoá” không còn gì. Năm 2002, chiếc hầm Bêxanh vẫn còn nhưng đến nay đã bị san lấp thành một bãi đất bằng phẳng.
Trong khu vực nhà máy cơ khí lúc đó, hiện chỉ còn lại ngôi nhà 2 tầng được xây dựng từ thời chủ mỏ Pháp, nhà có kết cấu bê tông cốt thép, mái cuốn vòm. Mỗi tầng nhà có hai cửa chính lớn và nhiều cửa sổ. Tầng 1 của ngôi nhà đặt máy phát điện phục vụ cho nhà máy cơ khí, tầng 2 của ngôi nhà là nơi ở của người Pháp. Ngôi nhà nay đã bị hư hỏng nặng, toàn bộ hệ thống cánh cửa đều không còn. Hiện Công ty than Mạo Khê vẫn giữ lại ngôi nhà đó để làm nơi ghi dấu sự kiện “Vô sản hoá” những năm 1926-1929.
Toàn bộ máy móc của nhà máy trước đây các hội viên Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, đã sử dụng trong thời gian “vô sản hoá” hầu như không còn lại thứ gì, hiện chỉ còn lại một chiếc máy tiện đồng chí Hạ Bá Cang (Hoàng Quốc Việt sử dụng trong thời kỳ đó). Chiếc máy tiện này, đang được trưng bày tại Nhà truyền thống của Công ty Than Mạo Khê.
- Chùa Non Đông, cơ sở bí mật của tổ chức Đông Dương Cộng sản Đảng năm 1929-1930:
Khi còn là cơ sở bí mật của Đông Dương Cộng sản Đảng, chùa Non Đông có kiến trúc kiểu chữ “Đinh” gồm năm gian tiền đường và ba gian thượng điện. Chùa được xây dựng giáp chân núi. Tiền đường xây bít đốc bình đầu lợp ngói mũi. Thượng điện cũng được xây kín và lợp ngói như toà tiền đường. Chùa có nhà tăng, nhà tổ. Năm 1947, chùa bị thực dân Pháp đốt phá và trở thành phế tích.
Ngày 14 tháng 11 năm 2002, Khu di tích lịch sử mỏ than Mạo Khê được xếp hạng di tích cấp tỉnh, đầu năm 2004, Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh đã phê duyệt dự án đầu tư tôn tạo chùa Non Đông.
Chùa hiện nằm trên khu đất bằng ở lưng chừng núi. Phía Tây giáp khu khai thác than của Công ty than Mạo Khê, phía Bắc giáp đồi và khu khai thác than của Công Ty than Mạo Khê, phía Nam giáp suối Non Đông. Chùa kiến trúc chữ “Đinh” gồm toà tiền đường ba gian hai chái, và thượng điện một gian hai chái. Tiền đường xây bít đốc bình đầu. Thượng điện cũng được xây kín như toà tiền đường. Mái lợp ngói mũi, chồng diêm hai tầng 8 mái, các đao mái đắp lân, lá cúc cách điệu, “long hồi”, miệng ngậm vân mây. Giữa bờ nóc đắp nổi “lưỡng long chầu nguyệt”, hai đầu bờ nớc đắp nổi lân ngậm đao lửa. Ba gian chính của tiền đường có ba cửa kiểu bức bàn, cánh cửa làm theo kiểu thượng song hạ bản. Hai gian chái, trổ cửa kiểu chữ “Thọ”
Từ dưới đi lên sân chùa phải qua 13 bậc. Sân chùa lát gạch bát kích thước 40cm x 40cm x 1.5cm. Dưới sân chùa, đối diện với cửa gian giữa tiền đường, đặt một lư hương lớn, một sập thờ và hai đôn làm bằng xi măng giả đá.
Bên phải chùa có một ngôi tháp 3 tầng, cách đó không xa là nhà chấp sự. Trước chùa chính qua một khoảng sân thấp nhỏ là toà Tam bảo và Tàng kinh mới tôn tạo xong vào giữa năm 2018.
Tam bảo hình chữ “Đinh”, được làm theo kiến trúc truyền thống đầu đao lá mái, tiền đường 2 tầng 8 mái, hậu cung chuôi vồ bít đốc 2 mái. Toà Tam bảo có diện tích 362 m2, có chiều cao 8,2m, tường xây gạch, móng nhà bê tông cốt thép. Mái là hệ thống dui mái đặt vuông góc với hệ thống hoành cách đều nhau, phía trên lợp ngói màn chữ “Thọ” kích thước 19cm x 15cm x 1.2cm, trên cùng lợp ngói mũi hài kích thước 27cm x 20cm x 1.5cm. Giữa ngói màn và ngói mũi hài dùng vữa xi măng liên kết. Thân nhà được làm bằng gỗ bao gồm hệ thống cột, vì kèo, xà, hoành…được liên kết với nhau bằng mộng. Hệ thống cửa kiểu bức bàn, thượng song hạ bản. Nền nhà lát gạch bát kích thước 30cm x 30cm x 3cm. Tam cấp toà Tam bảo gồm 7 bậc, mặt bậc làm bằng đá nguyên khối Thanh Hoá kích thước 60cm x 32cm x 15cm. Lan can đá ở đầu bậc hình rồng làm bằng đá nguyên khối Thanh Hoá.
Tàng kinh các có kiến trúc hình chữ “Nhất”, đầu hồi bít đốc 2 mái, có diện tích 150 m2, có chiều cao 5.8m, tường xây bằng gạch, móng bê tông cốt thép, có kết cấu bộ vì thượng chồng dường kẻ ngồi, làm bằng bê tông cốt thép sơn giả gỗ. Mái đổ bê tông dán ngói mũi hài kích thước 27cm x 20cm x 1.5cm. Nền lát gạch bát kích thước 30cm x 30cm x 3cm. Tam cấp gồm ba bậc, mặt bậc làm bang đá nguyên khối Thanh Hoá kích thước 60cm x 32cm x 15cm.
Chùa còn có tam quan ngoại nằm sát đường đi lại. Tam quan làm theo kiểu trụ biểu (gồm bốn trụ), hai trụ lớn và hai trụ nhỏ.
- Nơi thành lập chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam đầu tiên ở Quảng Ninh:
Nơi thành lập chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam đầu tiên ở khu mỏ Quảng Ninh năm 1930, là một lán thợ mái tranh, vách đất rộng chừng 10m2, Lán thợ nằm trong xóm thợ hẻo lánh ở cánh rừng phía Nam của mỏ. Xóm thợ này nằm sát khu nghĩa địa chính của Mạo Khê thời Pháp. Bên cạnh nghĩa địa có một con suối bắt nguồn từ trên núi xuống chảy qua khu vực nhà máy cơ khí rồi chảy qua nghĩa địa.
Năm 2002, sau khi di tích được công nhận là di tích cấp tỉnh, nơi thành lập chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam đầu tiên ở khu mỏ được dựng bia ghi dấu.
Năm 2015, được sự tài trợ của Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam, nơi thành lập chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam đầu tiên ở khu mỏ năm 1930 được tu bổ tôn tạo. Tại đây nhà bia ghi dấu nơi thành lập chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam đầu tiên tại khu mỏ Quảng Ninh được thi công giai đoạn 1.
Năm 2017, nhà bia tiếp tục được thi công giai đoạn 2 với các hạng mục sân đỗ xe, khuôn viên sân vườn, tường rào.
Công trình Nhà bia nơi thành lập chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam đầu tiên tại khu mỏ Quảng Ninh được khánh thành đúng vào dịp kỷ niệm 81 năm truyền thống công nhân mỏ truyền thống ngành Than (12/11/1936-12/11/2017).
Nhà bia nằm trên địa phận tổ I, khu Dân Chủ, phường Mạo Khê. Nhà bia mặt hướng về phía Nam hơi ghé Đông. Các phía của nhà bia đều giáp khu dân cư và đường liên khu. Quanh khuôn viên nhà bia có tường rào bảo vệ xây bằng gạch và hàng rào sắt bao quanh và cổng vào, cánh được làm bằng sắt thanh chắc chắn. Trước cổng nhà bia là con đường liên khu chạy qua và một bãi để khi khách đến thăm di tích đỗ xe. Bãi đỗ xe được đầm chặt, trên mặt láng xi măng.
Sân nhà bia làm thành hai cấp, từ cấp một lên cấp hai có bậc tam cấp ốp lát đá màu ghi xám, hai đầu ngoài tam cấp có hai đường lên được làm xoải xuống phía dưới.
Phía Bắc khuôn viên trên cấp hai của sân chính giữa xây nhà bia, phía sau và hai bên nhà bia có các bồn cây được xây bằng gạch, bên trong trồng các loại cây cảnh, cây ăn quả, cây lấy bóng mát (vạn tuế, ngâu, đại,…). Sân nhà bia được lát gạch bát kích thước 40cm x 40cm x 3cm. Hai mặt Nam và Tây của sân dưới nhà bia đặt các hàng ghế đá, để khi mọi người đến thăm viếng nhà bia ngồi nghỉ ngơi.
Nhà bia có, mặt bằng hình vuông, nền cao 50cm, diện tích 20m2, có chiều cao 4.57m2. Kết cấu công trình bằng bê tông cốt thép. Nhà bia có kiến trúc truyền thống một gian bốn mái kiểu hồi văn bốn đầu đao các chi tiết đầu đao kìm nóc bờ chảy trên mái sơn màu ghi sáng. Mái đổ bê tông cốt thép, dán ngói mũi hài kích thước 27cm x 20cm x 1.5cm, trên mỗi mét vuông dán 40 viên. Mái nhà bia được đỡ bằng hệ thống cột bê tông sơn giả gỗ (bốn chiếc) có đường kính 38cm, xung quanh cột tạo các trụ vuông đặt chân cột. Hành lang nhà bia ốp lát bằng đá khối Thanh Hoá.
Chính giữa nhà bia dựng một tấm bia bằng đá xanh Thanh Hoá, trang trí mặt trời, lá bồ đề, các dây lá cúc cách điệu. Bia cao 218.5cm, rộng 90cm, dày 26cm. Nội dung bia giới thiệu sự kiện thành lập chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam đầu tiên ở Quảng Ninh.
Nội dung khắc trên bia: “Nơi thành lập chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam đầu tiên tại khu mỏ Quảng Ninh – Khu mỏ Mạo Khê là nơi các lãnh tụ tiền bối của Đảng như Hoàng Quốc Việt, Nguyễn Văn Cừ hoạt động cách mạng trong thời kỳ “vô sản hoá” dẫn đến sự ra đời của chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam đầu tiên ở khu mỏ Quảng Ninh vào ngày 23 tháng 2 năm 1930. Chi bộ gồm 5 đồng chí, Đặng Châu Tuệ, Vũ Thị Mai, Đặng Huy Sán, Bùi Văn Mạo, Bùi Đức Giao. Đồng chí Đặng Châu Tuệ được chỉ định làm Bí thư chi bộ.
Đây là chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam đầu tiên được thành lập ở khu mỏ, mở ra bước ngoặt quan trọng trong phong trào công nhân mỏ nói chung và phong trào cách mạng ở Đông Triều nói riêng. Là một trong các chi bộ đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập theo đúng chánh cương vắn tắt, sách lược vắn tắt của Đảng. Từ đây phong trào cách mạng ở Đông Triều phát triển ngày càng mạnh mẽ, hoà chung với phong trào cách mạng của cả nước dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chi bộ đã lãnh đạo khởi nghĩa vũ trang thắng lợi ở khu vực Mạo Khê, giành chính quyền trong ngày 8 tháng 6 năm 1945.
Ngày 14 tháng 11 năm 2002 UBND tỉnh Quảng Ninh đã ban hành Quyết định số 4122/QĐ-UB công nhận nơi đây là di tích Lịch sử-Cách mạng khu mỏ Mạo Khê (gồm nơi thành lập chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam đầu tiên ở khu mỏ, Chùa Non Đông và Xưởng cơ khí)”.
- Sơ đồ phân bố di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc di tích:
Trải qua thời gian lịch sử, do điều kiện khách quan, chủ quan và những lý do khác, nên Khu di tích lịch sử mỏ than Mạo Khê hầu như không còn di vật và cổ vật gì, hiện chỉ còn bốn hiện vật có liên quan đến di tích, đang được trưng bày tại Nhà truyền thống Công ty than Mạo Khê.
- Chiếc máy tiện của nhà máy cơ khí, đồng chí Hạ Bá Cang (tức Hoàng Quốc Việt) đã sử dụng trong thời gian “vô sản hoá” ở mỏ Mạo Khê từ năm 1926 đến đầu năm 1928 .
- Đầu tàu chở than số 4: ngày 11 tháng 7 năm 1929 đồng chí Bùi Văn Mạo, làm công nhân ở nhà máy cơ khí đã lái chiếc đầu tàu chở than số 4 có cắm cờ đỏ búa liềm, hai bên dán biểu ngữ chào mừng Cách mạng Tháng Mười Nga, chạy trên đoạn đường 3km từ lò Bêxanh (nhà máy cơ khí) ra cảng Bến Cân và ngược lại.
- Cột điện, ngày 11 tháng 7 năm 1929, công nhân mỏ Mạo Khê đã treo cờ đỏ búa liềm, để kêu gọi công nhân đứng lên chống thực dân Pháp và tay sai và chào mừng kỷ niệm cách mạng Tháng Mười Nga.
- Cờ đỏ búa liềm, dùng trong buổi lễ kết nạp các đảng viên chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam đầu tiên của vùng mỏ Quảng Ninh ngày 23 tháng 2 năm 1930.
8. Giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học, thẩm mỹ của di tích:
Đông Triều là mảnh đất có bề dầy lịch sử, ở đó ẩn chứa nhiều di sản văn hoá đặc sắc, riêng khu mỏ Mạo Khê nơi có đội ngũ công nhân mỏ ra đời sớm, nơi có phong trào đấu tranh sớm nhất của công nhân mỏ Quảng Ninh. Mạo Khê cũng chính là nơi nhiều cán bộ cách mạng về hoạt động và làm công nhân đã trưởng thành, tiêu biểu là các đồng chí Hoàng Quốc Việt, Nguyễn Văn Cừ, Đặng Châu Tuệ, Nguyễn Thị Mai…Trong thời gian hoạt động ở Mạo Khê, các đồng chí đã cùng các chiến sĩ của tổ chức cách mạng: Nguyễn Văn Lịch; Đinh Tiến Toán; Bùi Văn Mạo; Vũ Huy Sán…đã tạo dựng được một đội ngũ cán bộ cốt cán trong công nhân mỏ Mạo Khê. Đội ngũ này đã lãnh đạo phong trào đấu tranh của công nhân mỏ Mạo Khê đi từ tự phát đến tự giác, tiến tới thành lập các tổ chức Đảng ở Mạo Khê mà cao nhất là chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam đầu tiên ở vùng mỏ Quảng Ninh.
Trong quá trình hoạt động ở mỏ Mạo Khê, các cán bộ cách mạng những hội viên của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, những đảng viên của Đông Dương Cộng sản Đảng, đảng Viên của Đảng Cộng sản Việt Nam, đã để lại nhiều dấu ấn lịch sử về cuộc đời hoạt động cách mạng của mình trên đất mỏ.
Khu di tích lịch sử Mạo Khê, là nơi ghi dấu những sự kiện lớn về quá trình hoạt động của những chiến sĩ cách mạng ở mỏ Mạo Khê. Nó đánh dấu sự trưởng thành về nhận thức của công nhân mỏ trong tiến trình phát triển cách mạng. Đánh dấu sự phát triển của các tổ chức cách mạng từ thấp đến cao, mà đặc biệt nhất là sự ra đời của chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam đầu tiên ở Quảng Ninh. Chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam ở Mạo Khê được thành lập là sự kiện có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng của địa phương. Nó chứng tỏ Đảng đã xác định được chỗ đứng vững chắc trong lòng phong trào cách mạng của địa phương. Đồng thời đánh dấu bước phát triển quan trọng của tổ chức Đảng ở địa phương, đáp ứng yêu cầu thống nhất sự lãnh đạo của Đảng với phong trào cách mạng của công nhân và nhân dân các dân tộc huyện Đông Triều nói riêng, công nhân và nhân dân các dân tộc tỉnh Quảng Ninh nói chung.
Chi bộ Đảng Cộng Sản Việt Nam đầu tiên ở khu mỏ Quảng Ninh là tiền thân để tiến tới thành lập Đảng bộ huyện Đông Triều (thị xã Đông Triều ngày nay), tổ chức Đảng đã lãnh đạo nhân dân các dân tộc Đông Triều đấu tranh giành nhiều thắng lợi trên các mặt chính trị, quân sự, kinh tế trong Cách mạng Tháng Tám, trong cuộc kháng chiến trường kỳ gian khổ chống thực dân Pháp xâm lược, trong hai cuộc chiến tranh phá hoại của đế Quốc Mỹ, trong công cuộc bảo vệ biên cương Tổ quốc và trong công cuộc đổi mới của đất nước.
Khu di tích là biểu tượng của sức mạnh đoàn kết, kỷ luật – đồng tâm, là biểu tượng của sự gắn bó giai cấp, gắn bó công – nông – trí thức, biểu tượng của tình yêu quê hương đất nước của công nhân mỏ Mạo Khê nói riêng, công nhân Quảng Ninh nói chung.
Di tích đã để lại cho chúng ta những bài học vô giá về công tác xây dựng Đảng; công tác tư tưởng, công tác dân vận. Bài học về tinh thần yêu nước, tinh thần cách mạng tiến công, đoàn kết trong Đảng, đoàn kết trong các dân tộc, bài học lấy dân làm gốc; bài học về bản sắc văn hoá dân tộc…
Khu tích lịch sử Mạo Khê là nơi giáo dục tinh thần yêu nước, niềm tin, lòng trung thành, ý chí kiên cường; tinh thần chiến đấu quên mình; tinh thần xả thân vì độc lập tự do của quê hương, đất nước; tinh thần vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, thử thách của các thế hệ cha anh, của nhân dân các dân tộc huyện Đông Triều nói chung, Công nhân mỏ và nhân dân Mạo Khê nói riêng trong đấu tranh cách mạng, trong các cuộc chiến tranh vệ quốc và trong công cuộc xây dựng đất nước.
Di tích là niềm tự hào của các thế hệ đảng viên, cán bộ và nhân dân các dân tộc Đông Triều, góp phần quan trọng cổ vũ Đảng bộ và nhân dân Đông Triều không ngừng phấn đấu vươn lên thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Di tích là nơi giao lưu của nhân dân địa phương với cộng đồng, tăng tiện nghi môi trường hoạt động nhân văn cho khu vực, làm phong phú thêm đời sống văn hoá, tinh thần của nhân dân. Góp phần đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế, phát huy tối đa các nguồn lực về du lịch của địa phương, đồng thời góp phần thúc đẩy lộ trình du lịch của tỉnh trong hàng loạt tuyến, điểm du lịch, tăng cơ hội giới thiệu với du khách những nét văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc và truyền thống của địa phương, đất nước.
Di tích làm hoàn thiện cảnh quan chung của cả khu du lịch trong hệ thống các tuyến, điểm du lịch không chỉ của Đông Triều, của Quảng Ninh, mà còn của cả hệ thống các điểm du lịch quốc gia.
- Thực trạng bảo vệ và phát huy giá trị di tích:
Để làm tốt công tác tham mưu với chính quyền địa phương trong công tác quy hoạch, bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị của di tích, Uỷ ban nhân dân phường Mạo Khê đã ra Quyết định số 12/QĐ-UBND ngày 20/01/2018 về việc thành lập Ban quản lý di tích. Ban quản lý di tích gồm 17 người, cụ thể:
- Ông Vũ Đức Quynh- Phó chủ tịch UBND phường – Trưởng ban;
- (Mời) Ông Nguyễn Văn Khoa – Chủ tịch UB MTTQ phường – Phó ban;
- (Mời) Ông Trần Quang Minh – Phó giám đốc Công ty Than Mạo Khê – TKV – Phó ban;
- Ông Trương Văn Thủy – Công chức Văn hóa – xã hội phường – Thường trực BQL;
- Ông Nguyễn Đông Hưng – Trưởng Công an phường – Ủy viên;
- Ông Ngô Văn Quảng – Chỉ huy trưởng Quân sự – Ủy viên
- (Mời) Bà Lê Thị Luyến – Chủ tịch Hội LH Phụ Nữ – Ủy viên;
- (Mời) Ông Trương Văn Luận – Chủ tịch Hội Nông Dân – Ủy viên;
- Bà Trương Thị Trang – Công chức Tài chính phường – Ủy viên;
- (Mời) Bà Nguyễn Mai Anh – Bí thư đoàn Thanh niên – Ủy viên;
- (Mời) Ông Trần Đức Hãnh – Chủ tịch Hội Cựu chiến binh – Ủy viên;
- Sư Thầy Thích Đàm Linh -Trụ trì Chùa Tế Mạo Khê – Ủy viên;
- (Mời) Ông Nguyễn Hải Hoàn – Trưởng phòng BVCT Than MK – TKV – Ủy viên;
- (Mời) Ông Vũ Ngọc Sỹ – Hội trưởng Hội từ thiện Non Đông – Ủy viên;
- Ông Vũ Đại Hải – Trưởng ban Bảo vệ dân phố – Ủy viên;
- Ông Nguyễn Đức Rún – Trưởng khu Vĩnh Lập – Ủy viên;
- Ông Đỗ Đình Thụy – Phụ trách văn Phòng – Ủy viên.
Từ khi được công nhận là di tích cấp tỉnh đến nay, nhà máy cơ khí nơi các hội viên của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên dùng làm địa điểm “vô sản hoá” từ năm 1926 đến năm 1929, chưa được dựng bia ghi dấu, chưa được tôn tạo. Tại nơi này hầu như chưa có hoạt động gì để phục hồi lại di tích.
Năm 2002, hầm Bêxanh, chiếc hầm phốt dùng để sửa chữa đầu tầu hoả thời kỳ thực dân Pháp khai thác than vẫn còn, nay cũng đã bị san thành bãi đất bằng. Trong khu vực nhà máy cơ khí, hiện chỉ còn ngôi nhà hai tầng nhưng cũng đã bị hư hỏng nặng.
Công ty than Mạo Khê Mạo đã có ý thức trong việc bảo vệ di tích. Ngôi nhà trong di tích hường xuyên có công nhân của Công ty trông coi, bảo vệ
– Chùa Non Đông, cơ sở bí mật của tổ chức Đông Dương Cộng sản Đảng, được Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh phê duyệt dự án đầu tư tôn tạo đầu năm 2004, sau đó chùa được phục hồi trên khu đất cũ. Hiện tại Uỷ ban nhân dân huyện Đông Triều đang triển khai dự án tu bổ tôn tạo, mở rộng chùa Non Đông với các hạng mục công trình: Tam bảo, tháp chuông, tam quan nội, tam quan ngoại, Nhà sắp lễ, lầu Quan Âm, tàng kinh các, nhà khách, nhà tăng, nhà trụ trì, lầu hoá sớ, chòi nghỉ, nhà thủ trực, nhà vệ sinh.
Trong các hạng mục công trình trên thì toà Tam bảo và Tàng kinh các đã được hoàn thành, các hạng mục công trình khác đang tiếp tục được tiến hành xây dựng.
– Sau khi Khu di tích được xếp hạng (năm 2002), nơi thành lập chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam đầu tiên ở khu mỏ được dựng bia ghi dấu. Từ năm 2015 đến năm 2017, bằng nguồn vốn xã hội hoá của Công ty than Mạo Khê và Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam, Uỷ ban nhân dân phường Mạo Khê đã tiến hành tu bổ tôn tạo nơi thành lập chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam đầu tiên tại khu mỏ Quảng Ninh với các hạng mục: Nhà bia, sân, vườn, hàng rào.
Công ty than Mạo Khê, Uỷ ban nhân dân huyện Đông Triều, Uỷ ban nhân dân phường Đông Triều thường xuyên tổ chức các hoạt động có ý nghĩa chính trị, ý nghĩa xã hội và giáo dục truyền thống tại Khu di tích. Tuy nhiên các hoạt động này nội dung chưa thực sự phong phú và còn trong phạm vi hẹp. Hoạt động phát huy di tích chưa gắn với hoạt động du lịch của địa phương.
- Phương hướng bảo vệ và phát huy giá trị di tích:
– Lập hồ sơ khoa học, đề nghị UBND Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch ra quyết định công nhận di tích cấp quốc gia đối với Khu di tích lịch sử mỏ than Mạo Khê để làm cơ sở pháp lý cho việc bảo tồn, tôn tạo, phát huy giá trị Khu di tích.
– Trước mắt cần dựng bia ghi dấu tại khu vực Nhà máy cơ khí, địa điểm “vô sản hoá” của các thanh niên trí thức giác ngộ cách mạng và các hội viên Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Khi điều kiện cho phép sẽ lập dự án đầu tư, tôn tạo Nhà máy cơ khí địa điểm “vô sản hoá” của các hội viên Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên.
– Giữ gìn nguyên trạng ngôi nhà hai tầng, để khi có điều kiện sẽ tiến hành tu bổ, tôn tạo lại ngôi nhà.
– Tiếp tục đẩy nhanh tiến độ tu bổ, tôn tạo, mở rộng chùa Non Đông
– Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao ý thức của mọi tầng lớp nhân dân, nhất là nhân dân địa phương trong việc bảo vệ và phát huy giá trị của Khu di tích.
Xác định rõ tầm quan trọng và ý nghĩa to lớn của Khu di tích lịch sử này, trong việc giáo dục truyền thống cách mạng, truyền thống yêu nước, cho nhân dân các dân tộc của địa phương. Chính quyền địa phương các cấp của thị xã Đông Triều cần chú trọng đến việc triển khai công tác bảo tồn, phát huy giá trị của di tích theo đúng quy định của pháp luật. Đồng thời gắn nhiệm vụ bảo vệ và phát huy giá trị của di tích, với việc phát triển kinh tế, xã hội của địa phương, đặc biệt là du lịch
Trong thời gian tiếp theo, chính quyền địa phương cần tập trung thực hiện một số nội dung như sau:
– Tiếp tục kiện toàn và nâng cao hiệu quả hoạt động của Ban quản lý di tích.
– Thường xuyên quan tâm đến công tác bảo tồn, tôn tạo, tu bổ di tích cũng như cảnh quan trong di tích và xung quanh di tích. Huy động nguồn lực bổ sung một số hạng mục phụ trợ phục vụ nhân dân và khách du lịch.
– Tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động có ý nghĩa chính trị, các hoạt động văn hoá văn nghệ, giáo dục truyền thống trong di tích. Thường xuyên tổ chức cho học sinh các trường học trên địa bàn phường Mạo Khê; thị xã Đông Triều, đến tham quan và học lịch sử địa phương tại di tích, để từ đó nâng cao ý thức trách nhiệm của các tầng lớp nhân dân trong việc chung tay bảo tồn, phát huy giá trị của di tích lịch sử đặc biệt có giá trị này.
– Làm tốt công tác giới thiệu, quảng bá về khu di tích; kết nối, đưa khách đến tham quan du lịch tại di tích.
- Kết luận:
– Khu di tích lịch sử mỏ than Mạo Khê, được Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh công nhận là di tích cấp tỉnh theo Quyết định số 4122/QĐ-UB ngày 14 tháng 11 năm 2002.
– Khu di tích lịch sử mỏ than Mạo Khê được Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh phê duyệt vào danh mục di tích lịch sử, văn hoá và danh lam thắng cảnh tỉnh Quảng Ninh theo Quyết định số 789/QĐ-UBND, ngày 26 tháng 3 năm 2015 của Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh về việc phê duyệt danh mục di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
– Căn cứ văn bản số 464/DSVH-DT, ngày 22 tháng 6 năm 2018 của Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch, gửi Sở Văn hoá và Thể thao tỉnh Quảng Ninh, V/v duyệt hồ sơ trích ngang Khu DTLS mỏ than Mạo Khê, thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh.
Với những giá trị lịch sử của khu di tích, để tiếp tục bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị của khu di tích có hiệu quả tốt hơn nữa, Uỷ ban nhân dân huyện Đông Triều lập hồ sơ khoa học di tích, đề nghị Sở Văn hoá và Thể thao Quảng Ninh, đề nghị Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, xét công nhận Khu di tích lịch sử mỏ than Mạo Khê là di tích cấp quốc gia./.
- Tài liệu tham khảo:
- Thi Sảnh – Lịch sử phong trào công nhân mỏ Quảng Ninh 1883-1945 – Ty Văn hoá – Thông tin Quảng Ninh.
- Ban nghiên cứu lịch sử Đảng Tỉnh uỷ Quảng Ninh – Những sự kiện lịch sử Đảng tỉnh Quảng Ninh (1928-1955)-Tháng 2-1980.
- Ban nghiên cứu Lịch sử Đảng Tỉnh uỷ Quảng Ninh – Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Quảng Ninh – 1985. – Tập 1.
- Tỉnh uỷ – Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh – Địa chí Quảng Ninh tập 1-Quảng Ninh 2001.
- Ban chấp hành Đảng bộ huyện Đông Triều – Lịch sử Đảng bộ huyện Đông Triều – Tập I (1930-1975) – Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia – Sự Thật – Hà Nội-2011.
- Ban chấp hành Đảng bộ thị trấn Mạo Khê – Lịch sử Đảng bộ và nhân dân thị trấn Mạo Khê (1929-2005) – Mạo Khê tháng 8 năm 2008.
- Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ – Mỏ than Mạo Khê – Truyền thống công nhân mỏ than Mạo Khê (1846-1994) – Tháng 10-1994
- Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Quảng Ninh – Công ty than Mạo Khê – Truyền thống công nhân Công ty than Mạo Khê (1840-2014) – Tháng 10-2014.
- Những ngày ở mỏ-Tập hồi ký-Ty Văn hoá Thông tin Quảng Ninh-Xuất bản 1971.
- Từ phong trào công nhân than Hòn Gai đến sự ra đời chính đảng trên khu mỏ đầu năm 1930 – GS. Đinh Xuân Lâm – Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam.
- Sở Văn hoá Thông tin Quảng Ninh – Ban quản lý di tích và danh thắng Quảng Ninh – Lý lịch Khu di tích lịch sử mỏ than Mạo Khê – Thị trấn Mạo Khê, huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh – Năm 2002.
———-